CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN năm B. Lễ Trọng. Lễ HỌ.

16/05 – CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN năm B. Lễ Trọng. Lễ HỌ.

NGÀY QUỐC TẾ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI.

"Đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".

 

Lời Chúa: Mc 16, 15-20

Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt.

Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".

Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.

 

Các bài suy niệm LỄ THĂNG THIÊN – Năm B

Lời Chúa: Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mc 16,15-20

NGÀY QUỐC TẾ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI

 

1. Có Chúa cùng hoạt động

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

"Thứ hai thì ngắm Đức Chúa Giêsu lên trời,

ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời."

Ái mộ những sự trên trời là một ơn ta phải xin,

vì dưới đất có nhiều điều làm ta ái mộ:

một người, một vật hay một việc nào đó.

Ái mộ quá có thể dẫn đến tôn thờ và làm nô lệ.

Trái đất có vẻ đẹp riêng của nó,

vẻ đẹp làm dịu lòng ta trong hành trình cuộc đời.

Tiếc thay nhiều lúc vẻ đẹp ấy giữ chân ta lại,

không cho ta bước nhanh tới đích.

Lắm khi vẻ đẹp ấy kéo ghì ta xuống,

không cho ta ngước lên cao.

Có vẻ trời ở xa, xa như huyền thoại.

Có vẻ chỉ trái đất là có thật, gần gũi.

Ta bị hút vào trái đất, đắm đuối mê say,

quên mình chỉ là người tạm trú trên mặt đất.

Chúa về trời, về với thế giới của Cha,

điều đó nhắc ta nhớ đời là một cuộc hành trình

mà đích nằm ở phía bên kia.

Trời là đích xa nhưng chi phối những chọn lựa gần.

Cần chọn hướng đi, chọn phương tiện sao cho đạt đích.

Không có trời thì chẳng biết đi đâu!

Con người cần có một trung tâm nằm ngoài mình,

thu hút mình, nâng mình lên,

kéo mình ra khỏi cái tầm thường, thực dụng.

Trời là trung tâm của đất. Đất cho con người sự sống.

Trời cho con người lẽ sống.

Nếu chỉ biết có đất, con người sẽ rơi vào tuyệt vọng,

vì đất chẳng thể thoả mãn con người.

Nơi lòng mỗi người đều có một mảnh trời riêng.

Mảnh trời này cứ đòi gặp bầu trời cao rộng

như gặp lại chốn cũ người xưa.

Thế giới luôn gặp nhiều bế tắc khó khăn

vì người ta đứng ở trên trái đất mà giải quyết.

Cần nhìn trái đất từ trời,

để thấy những giải pháp tận căn, bao quát, hiệu quả.

"Sao các ông cứ đứng nhìn trời?" (Cv 1,11)

Kitô hữu không chỉ khoanh tay ngước nhìn trời,

vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng đang chờ đợi họ,

vì trái đất còn bề bộn bao việc phải làm.

Sống tận tình cho trái đất mà vẫn ngước lên trời cao,

điều đó thật là một thách đố không nhỏ,

nhưng lại là cốt lõi của đời sống Kitô hữu.

Thiên đàng không phải là bầu trời trên đầu ta.

Nhưng bầu trời cao vút, bao la, thăm thẳm,

là một hình ảnh gợi mở về thiên đàng.

Bầu trời càng lúc càng bị che chắn bởi cao ốc.

Hãy tìm những giây phút để ngước mắt lên...

Ngắm bầu trời có thể giúp ta biết sống trên mặt đất.

Gợi Ý Chia Sẻ

Khi lần hạt Năm Sự Mừng, chúng ta xin được ơn "ái mộ những sự trên trời". Theo ý bạn, những sự trên trời là gì? Yêu những sự trên trời có khó không? Người Kitô hữu có bị giằng co giữa đất và trời không?

Lễ Chúa Thăng Thiên cũng là ngày Quốc Tế Truyền Thông. Ai cũng thấy tác hại của phim ảnh, tivi và những phương tiện truyền thông khác. Theo bạn, ta có thể dùng những phương tiện ấy để rao giảng Đức Kitô không?

 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã yêu trái đất này,

và đã sống trọn phận người ở đó.

Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc,

sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,

nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,

chúng con thấy mình được thêm sức mạnh

để xây dựng trái đất này,

và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,

xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời

không làm chúng con quên trời cao;

và những vẻ đẹp của trần gian

không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,

mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

 

2. Hướng lòng lên trời Mc 16: 15-20

(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin mừng Mc 16: 15-20 - Mừng Lễ Chúa Giêsu Lên Trời, Giáo Hội trình bày cho chúng ta nhiều điểm giáo lý quan trọng, nhưng đặc biệt, nhắc nhở mỗi chúng ta từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân về trách nhiệm sống và loan báo Tin Mừng mà Chúa Giêsu để lại cho mỗi người.

Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta chứng kiến việc Chúa về Trời. Chúa về Trời  trước hết diễn tả vinh quang chiến thắng. Qua sự phục sinh, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần. Người cũng chiến thắng những cám dỗ của thế gian nhằm lôi kéo Người từ bỏ thực thi ý định của Chúa Cha. Chúa Giêsu về trời, đem theo những dấu tích của cuộc khổ nạn (dấu đinh), như bằng chứng của sự hy sinh tự hiến để thánh ý Chúa Cha được nên trọn.

Nhìn lại lịch sử thăng trầm của con người, con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng. Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.

Việc Chúa Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.

Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.

Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.

Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.

Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, như chính Người đã khẳng định: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã trao cho con” (Ga 17,4). Và, như người lính sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở về với ngành nguyệt quế chiến thắng, Đức Giêsu được cất lên trời trong vinh quang và giữa tiếng muôn thiên thần tung hô chúc tụng.”Được cất lên”, đó là kiểu nói của Kinh Thánh. Độc giả Do Thái dễ dàng liên tưởng đến trường hợp của ngôn sứ Elia và ông Enốc trong Cựu ước. Hai vị này đã được Chúa cất lên không trung, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ngôn sứ.

Chúa Phục sinh đang hiện diện, đang có mặt trong cuộc đời chúng ta, không phải chỉ khi chúng ta họp nhau cầu nguyện, không phải chỉ khi chúng ta ở trong nhà thờ, nhưng Người còn hiện diện trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta. Khi thì như một người đang làm vườn (Ga 20,11-18), lúc thì như một người đi đàng (Lc 24,13-35), khi thì lại như một người đang cầu nguyện (Lc 24,50-53), lúc lại như một người thuyền chài (Ga 21,4-23). Chúa Phục sinh vẫn luôn đang hiện diện như vậy, không ngừng hiện diện như vậy với Giáo hội. “Lên trời” đấy, “ngự bên hữu Thiên Chúa” đấy; ấy vậy mà Giáo hội vẫn mạnh dạn khẳng định chắc chắn rằng: “Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,20).

Mừng Lễ Chúa Giêsu Lên Trời, Giáo Hội trình bày cho chúng ta nhiều điểm giáo lý quan trọng, nhưng đặc biệt, nhắc nhở mỗi chúng ta từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân về trách nhiệm sống và loan báo Tin Mừng mà Chúa Giêsu để lại cho mỗi người. Sách Công vụ Tông đồ đã thuật lại sự kiện Chúa Giêsu lên trời như là điểm kết thúc sứ mạng của Ngài và mở ra sứ mạng của Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúa về trời không phải Ngài thoái thác trách nhiệm, cũng không phải Ngài từ bỏ con người, nhưng Ngài hoàn tất nhiệm vụ Thiên Chúa Cha đã trao phó và trở về với Chúa Cha trong vinh quang của Ngài.

Cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời đúng bốn mươi ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội có ý giúp con cái mình sống lại kinh nghiệm của Giáo hội sơ khai, một kinh nghiệm rất hữu ích và phong phú cho đời sống của những người con Chúa. Trong thời gian bốn mươi ngày, Giáo hội sơ khai đã vinh dự được sống những tháng ngày mà Thầy Chí Thánh “chiếu cố” gặp gỡ một cách hữu hình, và ngày thứ bốn mươi là lần cuối cùng họ được diễm phúc gặp gỡ Người một cách trực tiếp. Để rồi từ đây, họ sẽ vui mừng hơn nữa khi đã đủ khả năng để bước vào một kinh nghiệm lớn lao hơn, đó là kinh nghiệm gặp gỡ. sống và hoạt động tông đồ với Người, Đấng từ nay sẽ hiện diện một cách vô hình. Điều này đã được thánh Luca mô tả rất hay. Sau khi đã chứng kiến tận mắt Thầy Chí Thánh “được cất lên” và “có đám mây quyện lấy Người”, để rồi “không còn thấy Người nữa”. “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ” (Lc 24,53).

Chúa lên trời, không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện tại trần gian, nhưng là một sự thay đổi cách thức hiện diện. Ngài không hiện diện bằng xương bằng thịt như trước đây, nhưng vẫn hiện diện bằng quyền năng, bằng Thánh Thần và bằng sự quan phòng. Người được cất lên trước mặt các Tông đồ và có đám mây bao phủ lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Hình ảnh đám mây bao phủ lấy Ngài, Thánh Kinh muốn nói rằng, Ngài vẫn hiện diện ở bên mỗi người, chỉ có điều là mắt chúng ta bị mây che phủ nên không nhận ra Ngài.

Chúa về trời để chỉ cho ta rằng, mục đích của mỗi người và quê hương đích thực của chúng ta là Nước Trời. Chúa về trời là một bảo đảm chắc chắn cho tất cả những ai tin theo Chúa, thực hành những điều Chúa dạy, đi theo con đường của Ngài thì cũng sẽ được về trời với Ngài. Ngài là người mở đường, Ngài đi trước để dẫn lối cho chúng ta theo sau. Vì thế, mỗi người phải luôn nhớ hướng tâm hồn và cả con người mình về quê trời, là nơi Thiên Chúa là Cha yêu thương đang đón đợi chúng ta.

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Chúa về Trời là lời khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường. Một thiên đường có Thiên Chúa sẽ làm no thỏa mọi hạnh phúc cho con người. Một quê Trời nơi đó con người sống thanh thoát khỏi những nhu cầu vật chất nên sẽ không còn bon chen, tranh giành, đầy đọa lẫn nhau. Một thiên đường hạnh phúc không phải một ngày mà là hạnh phúc miên trường.

Sống trong hy vọng phải là thái độ không thể thiếu nơi người tín hữu. Chúng ta không thể để những khó khăn hoặc những đe dọa của con người, của xã hội làm chúng ta mất niềm hy vọng. Niềm hy vọng của người tín hữu không ảo tưởng, nhưng được đặt trên lời hứa của Chúa Giêsu. Ngài hứa sẽ ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, Ngài sẽ trở lại đem chúng ta về với Ngài và chung hưởng hạnh phúc với Ngài.

Chúng ta chỉ có thể nói về Chúa cho người khác khi chúng ta có Chúa, đồng thời, ta chỉ có thể nói về Chúa một cách không mệt mỏi khi chúng ta hoàn toàn xác tín vào Chúa. Trong khi anh em Tin Lành không hề ngại ngùng nói về Chúa Giêsu, thì dường như người Công Giáo lại rất ngại khi nói về niềm tin của mình. Lý do là vì đời sống của họ quá khác với đời sống của Chúa Kitô và của Tin Mừng. Họ sống đạo một cách hời hợt qua lần, không cầu nguyện, không lãnh nhận Bí tích. Nhất là nhiều người không tự tin về vốn giáo lý của mình, bởi vì họ không học hỏi, không trau dồi nên họ tránh né không dám nói về Chúa, không dám mạnh dạn bênh vực niềm tin của mình.

Thật vậy, để về trời thì con người phải biết dựng xây thiên đường hạ giới bằng một đời sống thực thi Lời Chúa. Lời Chúa chỉ tóm gọn trong hai điều là mến Chúa yêu người. Yêu là cách chúng ta phá bỏ hỏa ngục để xây dựng thiên đường tại thế. Yêu là cách chúng ta đang gửi những viên gạch lên trời để xây dựng ngôi nhà vĩnh viễn trên thiên đường.

Và thầm mong cho mỗi người chúng ta được hưởng hạnh phúc thiên đường tại thế khi người người biết yêu thương nhau. Xin cho chúng ta biết xây dựng thiên đường hạ giới bằng yêu thương và phục vụ tha nhân như Chúa Giê-su đã sống và phục vụ. Đó cũng là phương thế đạt được hạnh phúc miên trường mai sau trong Nước Chúa. Amen.

 

3. Hướng lòng về trời cao

(Suy niệm của Huệ Minh)

Mở lại những trang thơ của nhà thơ Hàn Mạc Tử, ta bắt gặp bài thơ : "Những giọt lệ":

Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi!

Bao giờ tôi hết được yêu vì

Bao giờ mặt nhật tan thành máu

Và khối lòng tôi cứng tợ si??

Họ đã xa rồi không níu lại

Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa....

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?

Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?

Sao bông phượng nở trong màu huyết

Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?

Tâm tình sao mà da diết quá!

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.

Người đi thì mặc kệ người đi chứ có mắc mớ gì đến ta, dính dáng gì đến ta mà hồn ta bỗng dại khờ?

Nói như thế, ắt hẳn không thỏa đáng bởi lẽ là con người, bên cạnh lý trí, con người còn có những cảm xúc, tình cảm hết sức đặc biệt. Nhất là với những người thân quen, những ai đã hơn một lần gặp gỡ, hơn một lần sống chung, làm việc chung. Đặc biệt với người mà mình thương mến, khi xa cách sẽ có một cảm xúc khó tả và thật khôn lường.

Với những lẽ như vậy, ta hiểu được phần nào tâm trạng của các môn đệ khi xa cách Thầy mình. Khi chứng kiến cảnh Thầy lên trời, lòng cứ lâng lâng, cứ bâng khuâng nhìn mãi. Đang lâng lâng, đang bâng khuâng đó thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời".

Tiếc thương cũng rồi! Đành thôi đã lên trời! Còn đâu, ước mơ gì cũng thế!

Nếu ta là các môn đệ, ta cũng tiếc nuối, cũng nhớ nhung, cũng bâng khuâng nuối tiếc vì sự ra đi của Thầy Chí Thánh.

Nhìn vào cuộc đời các môn đệ, ta bắt gặp được những tình cảm hết sức tự nhiên, rất thật của con người. Các môn đệ tiếc nuối đó, đau đớn đó nhưng rồi nhờ ơn Chúa Thánh Thần, nhờ Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu hứa sẽ gửi đến đã đồng hành, đã cùng hoạt động nơi các ông. Các môn đệ tưởng chừng như mất phương hướng, tưởng chừng như buông xuôi đó nhưng lại mãnh mẽ lên đường để loan tin mừng Phục Sinh cũng như loan tin rằng Chúa đã lên trời để gọi là dọn chỗ cho những ai muốn đi theo Ngài.

Biến cố lên trời thật sự là một biến cố mất mát dưới cái nhìn của trần gian, dưới cái nhìn của tình cảm con người nhưng việc Chúa Giêsu lên Trời "có lợi hơn cho anh em" như Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ. Hẳn nhiên không ở lại mãi ở dưới đất với các môn đệ được. Và nếu cứ ở mãi dưới cái cõi nhân gian này thì cũng chẳng có gì để bàn, để nói cả.

Đọc và suy mầu nhiệm thứ hai trong mầu nhiệm Mân Côi mùa Mừng như thế này : Thứ hai thì gẫm Đức Chúa Giêsu lên Trời, ta hãy xin ái mộ những sự trên Trời! Lời gẫm, lời xin ấy xem ra đơn giản nhưng thật sự là khó bởi lẽ ái mộ thì ai cũng có thể ái mộ bằng lời nói, bằng cái miệng của mình nhưng để sống mầu nhiệm Nước Trời không phải là chuyện giản đơn.

Thật khó khi ta sống trong cái thân phận làm người mà Chúa lại mời gọi ta hướng lòng về Trời cao mà Trời cao đó chưa ai thấy, chưa ai nếm, chưa ai biết cả. Có chăng chỉ biết qua lời mà Thiên Chúa nói nơi Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa, là Con Một của Thiên Chúa mà thôi.

Lời của Chúa Giêsu, sứ mạng của Chúa Giêsu khép lại ở trần gian nhưng đã mở ra một cửa ngõ khác là cửa ngõ về trời. Như Chúa Giêsu đã hứa là Chúa đi và dọn chỗ cho chúng ta. Chính vì vậy, ta lại hoàn toàn tin tưởng và lại ngong ngóng hướng về Trời cao, nơi Chúa đã dọn sẵn cho mỗi người chúng ta.

Quả thật là khó khi ta sống trong cái thân xác này mà lại đòi hỏi lòng hướng về Trời. Quá khó để sống tâm tình đó vì lẽ trong ta mãi mãi có sự giằng co của sự thiện và sự ác, giằng co của cái bám víu vào thực tại trần gian và cái làm cho ta bay bổng lên cùng Thiên Chúa.

Ta thấy, như cánh diều biếc, càng nhẹ nhõm thì càng dễ vút lên trời. Ngược lại, con diều nặng nề sẽ không dễ dàng hay dù có lên trời đi chăng nữa cũng sẽ chòng chành và sẽ dễ rớt.

Nghĩ về con diều, nhớ về con diều để ta nhìn đến phận người của chúng ta. Cuộc đời của chúng ta cũng như những cánh diều biếc như vậy. Càng nhẹ nhõm, càng thanh thoát thì ta càng dễ đến gần Chúa và ở bên Chúa hơn.

Nhìn vào cuộc sống, đôi khi ta mãi mê thế sự trần gian nhưng ta quên điều chắc chắn của đời người đó chính là ai ai trong chúng ta không thể nào thoát ra khỏi cái chết. Chính cái chết đã bắt buộc ta phải bỏ lại những cái gì mà ta từng trân quý, ta từng ấp ủ trong đời, ngay cả người mà ta gọi là cha, là mẹ, là vợ, là chồng, là con cái... những người thân thương. Yêu lắm, thương lắm, nhớ lắm nhưng buộc lòng ta phải để lại chứ không ai có thể mang theo được. Và, dù người còn lại có yêu ta cỡ nào đi chăng nữa cũng không thể nào đi theo ta hay níu kéo ta được.

Thực tế là ta phải khép cuộc đời ta ở trần gian này tùy theo thánh ý Chúa cho ta sống bao nhiêu năm trên trần gian. Khi ta khép cuộc đời ở trần gian này ta bước qua ngưỡng cửa khác, ngưỡng cửa mới đó chính là ngưỡng cửa Nước Trời.

Nước Trời thật ra cũng dễ vào nhưng cũng rất ư là khó vào bởi lẽ Chúa Giêsu đã hơn một lần nói cho ta biết là phải vào cửa hẹp mới vào được Nước Trời, phải bỏ của cải thế gian, phải làm tôi Thiên Chúa, phải đáp ứng được những đòi hỏi của Nước Trời.

Ngày hôm nay, mừng kỷ niệm biến cố Chúa Giêsu lên Trời, ta không được dừng lại ở cái nhìn của trần gian, của con người xác thịt nhưng ta xin Chúa cho lòng ta hướng lên Trời thật sự. Lòng hướng lên Trời thật sự khi và chỉ khi ta bỏ bớt những đam mê của trần gian, những quyến rũ của trần gian.

Vẫn là con người mong manh mỏng dòn và yếu đuối, chính vì thế ta lại càng cần xin ơn Chúa hơn nữa để ta bỏ đi những gì là dính bén vào đời ta làm cho ta nặng nề và khó siêu thoát. Xin Chúa thêm ơn cho ta để dù sống trong cuộc đời này nhưng lòng ta luôn hướng về Quê Trời nơi quê hương đích thực của mỗi người chúng ta.

 

4. Chứng từ & việc rao giảng

(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)

Chủ đề: "Đức Giêsu giao chúng ta sứ mệnh làm chứng cho Ngài giữa thế gian và rao giảng cho các dân tộc"

Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đường ở Châu Âu. Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn; Đừng xấu hổ khi phải công khai tuyên xưng nó”.

Sau thánh lễ, một lính thủy do rất xúc động vì bài giảng đã chận vị tuyên uý ngay trước cửa giáo đường và hỏi; “Thưa cha, cha có bằng lòng nghe con xưng tội không?”. Vị tuyên uý trả lời: “Tôi rất sung sướng được nghe anh xưng tội”. Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay trước giáo đường. Vị tuyên uý vội nói; “Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!”. Chàng lính thủy đáp lại: “Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của con”.

***

Tinh thần làm chứng nhân của anh lính thủy quả là hơi “quá” nhiệt tình, nhưng chắc chắn anh đã có một ý nghĩ đúng đắn. Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Chúa Giêsu bảo các môn đệ “Các ngươi sẽ làm chứng cho Ta đến tận cùng trái đất”. Lệnh truyền của Chúa Giêsu bao hàm tất cả chúng ta, qua Bí Tích Rửa tội, Thêm sức, tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm chứng nhân cho Chúa Giêsu. Nhưng Bí tích Rửa tội và Thêm sức còn đòi hỏi chúng ta đi xa hơn, chúng yêu cầu chúng ta nhiều hơn nữa. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Hãy công bố Tin Mừng cho mọi tạo vật”. Đó cũng là điều mà tất cả chúng ta phải thi hành.

Việc công bố Tin Mừng về Chúa Giêsu không dành riêng cho các linh mục hay các tu sĩ. Đó là bổn phận mà tất cả chúng ta đều phải thực hiện sau khi đã nhận lãnh phép Rửa tội và Thêm sức. Điều này gợi lên một vấn nạn: Một người trung bình có thể rao giảng như thế nào về Chúa Giêsu trong thế giới hôm nay?

Tôi xin chia sẻ với quí vị câu chuyện nói về cách thế mà một người đã dùng để trả lời cho câu hỏi ấy.

Ruddell Norris là một chàng trai cần mẫn. Chỉ tội chàng ta nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy là khó khăn rồi, huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ. Thế rồi một ngày kia chàng nảy ra một ý kiến. Ruddell đọc sách khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức tin công giáo. Vì vậy chàng quyết định dành riêng một phần tiền tiết kiệm hàng tuần để mua những cuốn sách ấy. Ruddel để những cuốn sách ấy ở những nơi mà chàng nghĩ người ta thường cầm chúng lên đọc. Chẳng hạn, ở những phòng chờ đợi và tiếp khách.

Một hôm, một thiếu phụ vốn là bạn của gia đình chàng kể cho cha mẹ chàng biết cô ấy đã trở lại đạo thế nào và chồng cô đã trở về với Giáo hội thế nào. Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một quyển sách nhỏ mà tôi đã tìm thấy tại phòng chờ đợi ở bệnh viện”. Anh chị em có thể tưởng tượng được chàng trai đã phấn khởi biết bao khi biết được tầm ảnh hưỏng mà chỉ một trong những tập sách nhỏ của chàng đã tạo ra.

***

Câu chuyện của Ruddell Morris nhấn mạnh một điều quan trọng trong việc công bố Tin Mừng: Có nhiều cách để công bố Tin Mừng. Chúng ta có thể công bố một cách trực tiếp như Ruddell đã làm. Hoặc “công bố” một cách gián tiếp, chẳng hạn bằng lời cầu nguyện hoặc gíup đỡ tài chính cho các hoạt động truyền giáo của Giáo hội.

Lễ Thăng Thiên là một trong những lễ quan trọng nhất của toàn năm phụng vụ. Đó chính là lý do khiến chúng ta mừng lễ Thăng Thiên với hình ảnh chuyền gậy từ vận động viên này tới vận động viên khác trong một số cuộc chạy đua tiếp sức.

Cũng ngay này, cách đây hơn 2000 năm, Đức Giêsu đã chuyền chiếc gậy tượng trưng công việc của Ngài cho các môn đệ để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Chúng ta có thể tiếp tục công việc ấy bằng cách làm chứng cho đức tin của mình như anh lính thủy kia đã làm và công bố đức tin ấy cho kẻ khác như Ruddell đã làm. Đây là một trách nhiệm hai mặt mà lễ Thăng Thiên đặt ra cho chúng ta. Mỗi người chúng ta phải chu toàn trách nhiệm này theo cách thức mà Chúa Thánh Thần linh ứng cho từng người.

Để kết thúc, chúng ta hãy nhắc lại những lời Đức Giêsu truyền dạy cho các môn đệ Ngài trong bài giảng trên núi. Chúng có một ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta trong ánh sáng của ngày lễ hôm nay.

“Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được, nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.

Các con là ánh sáng cho toàn thế giới, là một thành phố xây trên một ngọn đồi nên không thể giấu được….

Cũng thế, ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5: 13-16).

 

5. Chứng nhân của Đức Kitô

(Suy niệm của AM Trần Bình An)

Từ hơn 500 năm trước, ngôn sứ Dacaria đã tiên báo Chúa Giêsu sẽ chia tay các môn đệ tại núi Ôliu. “Ngày ấy, Người sẽ dừng chân trên núi Ôliu, đối diện với Giêrusalem về phía đông.” (Dcr 14,4). Điều đó đã được sách Công Vụ Tông Đồ xác nhận ngay trong phần mở đầu. (Cv 1, 12)

Mặt khác, cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu diễn ra tại vườn Giệtsimani, dưới chân núi Ôliu. Nay Chúa thăng thiên trên núi Ôliu, phản ảnh sự liên tục đầy ý nghĩa, cũng như sự liên kết chặt chẽ giữa đất và trời qua trung gian Chúa Giêsu.

Kinh ngạc trước cảnh tượng Chúa Thăng Thiên vinh hiển và huy hoàng, các tông đồ cứ mãi ngẩn ngơ dõi theo, đến nỗi hai thiên sứ hiện đến nhắc nhủ: Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông thấy Người lên trời. (Cv 1, 11)

Bây giờ, chúng ta cũng chẳng khác các ngài, cũng hay chỉ đơn giản nhìn lên trời, mà than thở, kêu van, kinh kệ, hay ao ước, mong vào cõi phúc vĩnh cửu. Làm như sống đạo chỉ biết đến duy nhất hai chữ “Xin Cho”, y như bắt chước nếp sống thế gian, khi long đong lận đận, chỉ biết xin xỏ lòng hảo tâm.

Tuy nhiên, điểm nổi bật trong bài Tin Mừng theo thánh sử Máccô hôm nay, chính là lời dặn dò cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi Người lên trời. “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin sẽ bị kết án.” (Mc 16, 15)

Sách Công Vụ Tông Đồ còn nhấn mạnh hơn nữa: “Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1, 8)

Như thế, tuy hai câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu được hai sách thánh ghi lại, không hoàn toàn giống nhau về mặt chữ nghĩa, nhưng lại cùng chung một nội dung truyền giáo, một lời trăn trối, hay đúng hơn là một mệnh lệnh.

Mệnh lệnh truyền giáo đó được thực hiện cụ thể qua hai hành động: Loan báo Tin Mừng và làm Chứng Nhân của Chúa Kitô. Tuy hai, mà lại kết hợp mật thiết làm một, như hai mặt của một đồng tiền. Dẫu vậy, thường chúng ta lại chỉ quen chọn và ưu ái một việc, là thích rao giảng hơn làm chứng nhân.

Trước đây, Chúa Giêsu đã nêu tấm gương sáng, ngôn hành hiệp nhất, qua ba năm giảng dạy và cuộc khổ nạn đau đớn, để minh chứng công khai tính khả thi trọn vẹn của mệnh lệnh đó.

Riêng vai trò chứng nhân được Chúa nhắn nhủ nhiều lần. “Chính anh em là muối cho đời…Chính anh em là ánh sáng cho đời…Ánh sáng của anh em phải chiểu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp của anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh  em, Đấng ngự trên trời.”(Mt 5, 13-16) (Mc 9, 50)( Lc 14, 34-35)

Cảm nghiệm về vai trò chứng nhân, ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận chia sẻ:”Giáo dân thời sơ khai diễn tả cách nôm na: Tông đồ là người có Chúa Kitô trong lòng, Chúa Kitô trên miệng, Chúa Kitô trên tay, Chúa Kitô trong óc, Chúa Kitô trên vai…Tóm lại, là một người đầy tràn Chúa Kitô và cho kẻ khác Chúa Kitô.”( ĐHV, số 292)

Lạy Chúa Kitô, xin cho con biết nhiệt thành đón nhận sứ mệnh Đi Gieo Tin Mừng, mặc dù gian nan, thử thách và hiểm nguy.

Lạy Mẹ Mân Côi, xin giúp sức con can đảm, trở thành chứng nhân đích thực của Chúa Kitô, giữa xã hội xô bồ đầy mâu thuẫn, đang mải mê chạy theo tà thần và phù vân. Amen.

 

6. Sống mầu nhiệm Chúa lên trời

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Mùa Phục Sinh theo niên lịch Phụng vụ sắp kết thúc. Hội Thánh dẫn đoàn con đến với mầu nhiệm Chúa Thăng Thiên. Dĩ nhiên là Kitô hữu trưởng thành, hẳn chúng ta không còn ngây ngô nhìn lên khoảng không gian trên trời để tìm xem nơi Chúa đã về. Chúa về trời nghĩa là Chúa lấy lại vinh quang của một Thiên Chúa có từ đời đời với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Điều này được Thánh Kinh trình bày khi nói Chúa Kitô về trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Eph.1,20-21). Và chúng ta có thể nói rằng mầu nhiệm Chúa về trời như là một trong những điểm tới của nhiệm cục cứu độ.

1. Mầu nhiệm Chúa về trời khẳng định “thần tính” của Đấng vào đời: Không ai có thể lên trời nếu người đó không từ trời mà xuống (x.Ga 3,13). Đấng từ trên cao xuống là Đấng vượt trên muôn vật muôn loài. Khi tuyên xưng Đức Kitô về trời chúng ta không chỉ tuyên xưng một biến cố mà là tin nhận một quá trình. Đó là “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trỗi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Phil 2,6-11).

2. Mầu nhiệm Chúa về trời là nền tảng cho niềm hy vọng của con người: Chúa Kitô bỏ vinh quang danh dự của mình khi vào đời để rồi sau đó lấy lại thì có liên quan gì đến loài người chúng ta cũng như mọi loài thụ tạo? Xin thưa rằng có. Khi về trời, ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang bất diệt thì trong Chúa Kitô đã có tất cả những gì là thuộc nhân tính, thuộc thế trần. Bởi vì những gì thuộc thế trần, thuộc nhân tính đã được Đức Kitô tiếp nhận khi vào trần gian. Chính vì thế, từ đây mọi sự mọi loài, đặc biệt loài người chúng ta có thể đi vào cõi vinh quang vĩnh hằng chính là nhờ, với và trong Đức Kitô. Cái hữu hạn từ đây có thể trở nên thường tồn. Sự chóng qua từ đây có thể trở nên bất diệt. Và điều này đáp ứng nỗi khát mong muôn thưở của con người đó là được sống mãi. Niềm hy vọng của con người về sự trường sinh đã được mở ra với mầu nhiệm Chúa Kitô lên trời. Đức Giáo hoàng Lêô Cả khẳng định rằng khi mừng mầu nhiệm Chúa lên trời là “chúng ta đang tưởng niệm và long trọng cử hành ngày bản tính yếu hèn của chúng ta nơi Đức Kitô được đưa lên cao hơn các đạo binh trên trời, hơn tất cả các phẩm thiên thần, hơn tất cả các quyền thần, để cùng hiển trị với Chúa Cha” (Bài đọc 2 giờ Kinh Sách Thứ Năm tuần VI mùa Phục Sinh).

3. Mầu nhiệm Chúa về trời mời gọi, đúng hơn là thúc bách ta rao truyền tin vui: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,17-20). “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15) Tin nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa thật, đồng thời tin nhận Người đã đưa các thực tại trần thế vào vinh quang Thiên Chúa với mầu nhiệm Thăng Thiên, không chỉ củng cố niềm hy vọng của chúng ta mà còn thúc bách ta rao giảng Tin Mừng. Nội hàm chủ yếu của Tin Mừng chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân trần mãi đồng hành với nhân loại mọi nơi, mọi thời. Thiên Chúa đã cắm lều giữa trần gian là ở mãi với nhân loại. Người mãi đồng hành với chúng ta, đặc biệt bằng Thánh Thần Người ban tặng, bằng Lời của Người đã trao ban, bằng các Bí tích, bằng Hội Thánh Người đã thiết lập…

4. Mầu nhiệm Chúa về trời đòi hỏi chúng ta làm cho cuộc đời hữu hạn này trở nên thường tồn. “Hởi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?…” (Cvtđ 1,11). Ái mộ những sự trên trời không có nghĩa là ái mộ những sự gì đó trên cao xanh mà là ái mộ những sự vĩnh hằng, những sự không thể bị kẻ trộm lấy mất hay mối mọt làm hư hoại (x. Mt 6,20). Lòng ái mộ này thúc bách ta không ngừng tìm cách vĩnh cửu hóa các thực tại chóng qua. Mọi sự, dù là bình thường hay tầm thường đều có thể trở thành phi thường trong tình yêu của Đấng Cứu Độ dành cho nhân trần. Tình yêu ấy có thể hiện rõ qua Lời Chúa, qua các Bí tích, qua Hội Thánh. Nhưng tình yêu ấy cũng có thể bàng bạc khắp mọi nơi bằng quyền năng của Thánh Thần, Đấng luôn luôn tự do như “gió muốn thổi đâu thì thổi” (x.Ga 3,8). Cùng với Thánh Thần, Hội Thánh không ngừng làm cho Nước Trời trị đến mọi lúc, mọi nơi, trong mọi thực tại của kiếp người: kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, giải trí, truyền thông…

Chính nhờ, với và trong tình yêu của Đức Kitô thì các thực tại trần gian trở thành vĩnh cửu. Đây là tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, một tình yêu hướng tha. Và Chúa Kitô đã cụ thể hóa tình yêu ấy bằng sự hiến dâng mạng sống mình cho nhân loại (x.Ga 15,13). Yêu thương mà tự nguyện nhỏ mình đi, ẩn mình đi, tự hủy mình đi để cho người mình yêu được sống, sống dồi dào, được triển nở và tinh tuyền thì đúng là yêu thương cách hoàn toàn vị tha, chỉ vì người mình yêu. “ Thầy ra đi thì có lợi cho anh em …” (Ga 16,8). Có thể nói Chúa Kitô đã khởi đầu sự ra đi ấy với việc bỏ trời xuống làm người, với hiến tế thập giá và kết thúc bằng mầu nhiệm về trời.

Ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa (x.1Ga 4,7-21). Ai ở trong Thiên Chúa là ở trong Nước Trời. Tuy nhiên, tình yêu ở đây phải là tình yêu một cách nào đó như Chúa Kitô yêu thương chúng ta (x. Ga 13,34-35). Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã thực thi điều này. Dù ở trong đan viện, kín cổng cao tường, chị đã làm cho những việc bé nhỏ, bình thường, và cả tầm thường như quét nhà, giặt giũ…trở nên phi thường bất diệt bằng chính con tim tràn đầy tình mến của chị. Nước trời không ở đâu xa. Nước trời đang ở giữa chúng ta. Chính vì thế, ta có thể nói rằng đừng tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời ở một cõi nào đó trên cao, nhiều khi khiến chúng ta đâm ra ảo tưởng, xa rời thực tế, bỏ bê bổn phận, nhưng hãy làm cho hạnh phúc thành hiện thực ngay ở đây, lúc này.

 

7. Liên kết trong Chúa

(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)

Mấy tuần qua Phúc âm nhắc đi nhắc lại lời Đức Kitô mời gọi hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Liên kết với Đức Kitô để qua Đức Kitô, Kitô hữu được liên kết với Chúa Cha. Đức Kitô về cùng Chúa Cha, thường được biết đến như là lễ mừng Đức Kitô về trời. Dù Đức Kitô về cùng Chúa Cha, tình liên kết Chúa dành cho Kitô hữu không gặp bất cứ ngăn trở nào. Kitô hữu vẫn có thể liên kết với Đức Kitô qua tình yêu Ngài. Điều này không có chi lạ bởi chính tình yêu Chúa liên kết Kitô hữu nên một. Đức Kitô ở trần gian hay về cùng Chúa Cha, tình yêu Chúa dành cho nhân loại không thay đổi. Liên kết trong tình yêu Chúa để được trổ sinh hoa trái, không phải hoa trái thường, mà là hoa trái có phẩm chất đặc biệt, cùng phẩm chất hoa trái khi Ngài còn ở trần thế bởi hoa trái đó trổ sinh nhờ vào tình yêu Đức kitô.

Thứ hai, liên kết với Đức Kitô để mối giây liên kết liên tục đón nhận ân sủng Chúa, tránh cô đơn khi gặp nguy khó. Ai cũng có người thân và bạn thân, tuy nhiên trong rất nhiều trường hợp người thân đó bó tay, dù ước ao, mong muốn nhưng không đủ khả năng giúp đỡ, hoàn cảnh không cho phép. Đức Kitô Phục Sinh là Đấng duy nhất có khả năng vượt mọi rào cản, cấm đoán hay hàng rào hạn chế bởi Ngài không bị ảnh hưởng bởi điều kiện không gian và thời gian. Vì thế liên kết với Đức Kitô sẽ luôn nhận được ơn Chúa dù trong hoàn cảnh tồi tệ nhất, Ngài cũng hiện diện, kề bên, cùng dìu ta đi.

Thứ ba, liên kết với Đức Kitô sẽ nhận được ơn can đảm và sức mạnh nội tâm để vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Chính Đức Kitô đã trải qua cảm nghiệm cô đơn, môn đệ sợ hãi bỏ chạy, một mình Ngài đối diện với thập giá. Giờ phút kinh hoàng cuối đời của Ngài là giây phút cô đơn. Nó thể hiện trong câu nói 'linh hồn Thầy lo buồn đến nỗi chết'. Nó thể hiện trong lời than: không thể cùng thức với Thầy được một giờ sao? Thức để làm chi? Thức để liên kết với Chúa trong cầu nguyện; liên kết với Chúa để tránh được cơn cám dỗ. Sa ngã vì thiếu kiên tâm cầu nguyện, vì tự tin vào khả năng riêng mình, vì đời sống cầu nguyện nghèo nàn. Môn đệ vì mệt mỏi, nửa tỉnh, nửa mê và đã bỏ chạy khi Thầy bị bắt. Dẫu thế tình yêu Chúa dành cho các ông không thay đổi.

Thứ tư, liên kết với Đức Kitô để cảm nghiệm Đức Kitô luôn giữ trọn lời thề. Lời Ngài hứa chắc chắn sẽ được thực hiện cách tốt đẹp, hoàn hảo. Đức Kitô hứa, Ngài sẽ thực hiện. Làm sao, thời gian nào do Ngài quyết định.

Thứ năm, mục đích cuối cùng và là mục đích chính và là việc cao cả của việc liên kết. Bởi liên kết với Đức Kitô sẽ được liên kết với Chúa Cha. Liên kết một cách vững bền cùng mối liên kết Đức Kitô dành cho Chúa Cha. Điều này được thực hiện bởi nhờ Đức Kitô liên kết với Chúa Cha trong mọi sự. Vì thế qua Đức Kitô mà Kitô hữu được kết liên với Chúa Cha. Chúng ta biết điều này qua lời cầu của Đức Kitô. Đức Kitô cầu xin Chúa Cha liên kết Kitô hữu trong Ngài để tất cả được nên một trong Chúa.

Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, đệ họ nên một như chúng ta. (Ga. 17,11)

Thứ sáu, liên kết cùng Đức Kitô sẽ vượt thắng, tránh được hãm hại của ác thần bởi chính Chúa Cha ban ơn bảo vệ giúp Kitô hữu chống lại ác thần. Ác thần ghét Kitô hữu vì Kitô hữu sống nơi trần thế nhưng không thuộc về trần thế, lòng luôn hướng về quê thật là nước trời. Vì không thuộc về chúng nên chúng tìm cách ám hại. Sa đoạ, hay sa chước cám dỗ bởi đời sống cầu nguyện nghèo nàn, bởi liên kết với Chúa một cách hời hợi, mở cửa cho ác thần lợi dụng, hãm hại.

Cuối cùng liên kết cùng Đức Kitô để cuối cuộc lữ hành trần thế cũng sẽ được liên kết, chung sống trong nhà Chúa. Đức Kitô đi trước mở đường chuẩn bị đón nhận Kitô hữu vào trong nhà Chúa. Kitô hữu được thánh hiến trong sự thật để trở thành chứng nhân đích thực, sống động trong Đức Kitô, loan bố Tin Mừng Phục Sinh của Đức Kitô, Người hiến thân chịu khổ hình chết, ban sự sống trường sinh cho nhân loại. Vì thế châm ngôn của Kitô hữu tóm gọn trong thánh lễ với lời Chúc tụng:

Chính nhờ Người với Người và trong Người mà mọi chúc tụng và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn thuở, muôn đời.

 

8. Kiên vững với thời gian

Trước khi về trời, Chúa Giêsu còn muốn giáo huấn các môn đệ lần cuối cùng và trao phó cho các ông một sứ mạng quan trọng. Ngài nói: Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ và nhắc bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con. Như thế việc rao giảng Tin Mừng không còn là một việc mơ hồ viễn vông, nhưng là một việc hết sức cụ thể, dẫn tới thái độ vâng giữ những giới luật của Chúa.

Ngay từ những ngày đầu, các môn đệ đã gặp phải những sự thù oán, bắt bớ và cấm cách, nhưng các ông không hề nao núng sợ hãi bởi vì như lời Chúa đã phán: Này Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Đây không phải chỉ là một lời nói đầy an ủi khích lệ mà còn la một sự kiện lịch sử hiển nhiên. Giáo Hội qua dòng thời gian, cũng đã gặp phải biết bao nhiêu sóng gió và thử thách. Giáo Hội vẫn không hề nao núng và sợ hãi bởi vì Chúa luôn hiện diện trong lòng Giáo Hội, hầu nâng đỡ và phù trợ cho Giáo Hội. Nếu chỉ là một tổ chức bình thường, có lẽ Giáo Hội đã bị quét sạch từ lâu.

Khi học về lịch sử, chúng ta thấy biết bao nhiêu đế quốc đã bị xoá tên, biết bao nhiêu thể chế đã bị sụp đổ, nhưng Giáo Hội vẫn kiên vững trong muôn vàn sóng gió. Bởi vì nền móng của Giáo Hội là đá tảng. Vào năm 1952 ĐGM King đã viết cho các sinh viên công giáo tại Thượng Hải như sau: Cây thập giá thì nặng, nhưng nhờ cây thập giá ấy mà con người giữ vững được đức tin, và cuộc đời chúng ta sẽ trổ sinh những bông hoa chiến thắng. Khi nghĩ về một tương lai đen tối tôi bỗng mỉm cười, bởi vì chúng ta vác thập giá, chúng ta đi đường thập giá, chúng ta lai cảm thấy hạnh phúc bởi vì chúng ta đang sống trong một thời điểm đặc biệt. Nếu như Thiên Chúa muốn biến chúng ta trở thành những dụng cụ của Ngài, thì chúng ta phải sẵn sàng.

Trước khi về trời Chúa Giêsu còn nói: Các con sẽ nhận lấy sức mạnh Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên các con, để các con trở nên nhân chứng của Thầy ở Giêrusalem, ở Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng bờ cõi trái đất. Cho đến lúc bấy giờ các ông vẫn còn mơ tưởng đến của cải vật chất mà nhắm mắt lại trước những chân lý siêu nhiên. Các ông như bị cột chặt vào mặt đất và không thể bay bổng tới trời cao. Suốt ba năm sống với Chúa, nghe những lời Ngài nói và nhìn xem những việc lạ lùng Ngài làm, thế mà cõi lòng các ông vẫn chai đá, các ông quay lưng lại với ánh sáng.

Chúng ta cũng vậy, để được hướng tới bình diện siêu nhiên, để được sống trong Chúa Thánh Thần, chúng ta phải biết vượt qua lãnh vực vật chất và những níu kéo của trần gian. Có lần Chúa Giêsu đã nói: Thầy đi thì có lợi cho các con hơn, bởi vì nếu Thầy không đi thì Chúa Thánh Thần sẽ chẳng đến với các con. Nhờ Chúa Thánh Thần mà các tông đồ đa mặc lấy con người mới. Chính Ngài cũng sẽ giúp đỡ chúng ta để biết canh tân, để biết nhìn sự việc bằng đôi mắt của Chúa Giêsu.

Bởi đó trước những khó khăn của cuộc sống thường ngày chúng ta hãy kêu cầu Ngài đến với chúng ta. Thế nhưng cho đến ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn còn là một vị Thiên Chúa bị quên lãng nhiều nhất. Vậy thì Chúa Thánh Thần hiện đang nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống chúng ta?

 

9. Trời ở quanh ta

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Chúng ta đang sống trong không gian vũ trụ bao la, nên khi nói lên trời chúng ta nghĩ rằng trời không trong không gian vũ trụ, một nơi bên ngoài trái đất này. Vì thế, khi nói “Chúa Giêsu lên trời” chúng ta cũng dễ hình dung Chúa Giêsu như một “phi hành gia” tự động cất bổng mình lên trời ra ngoài quỹ đạo của trái đất? Vậy thì Chúa Giêsu đi về phương trời nào? Phi hành gia Mỹ New Amstrong đặt chân lên mặt trăng đầu tiên 1930, rồi đến các phi hành gia Liên Xô khi bay ra ngoài vũ trụ đã nói rằng chúng tôi không thấy Thiên Chúa đâu hết.

Chúa Giêsu “được rước lên trời”: đó là một lối nói của Thánh Kinh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay trở về với Cha. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã-từ-trời xuống” (Ga 3,13). Câu chuyện Chúa lên trời được bài đọc 1 kể lại là một kiểu nói bình dân để diễn tả một mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh, tức là nhân tính của Chúa Giêsu được tôn vinh hay nói cách khác, được vào trong vinh quang Chúa Cha, được ngồi bên hữu Chúa Cha. Vì vậy, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô quả quyết: “Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai”.

Cho nên, lễ Chúa Thăng Thiên không phải là một cuộc chia ly, tiễn đưa Chúa Giêsu vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan giữa ta với Ngài. Chúa về trời là có nghĩa rằng ta không còn thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Nhưng chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin thế nên, Chúa Giêsu nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20) là vậy đó!

Mừng lễ Chúa Thăng Thiên là mừng ngày Đức Giêsu được tôn vinh, hôm nay Ngài được hưởng vinh quang và danh dự của Thiên Chúa. Cho nên, Chúa về trời là bảo chứng rõ ràng nhất cho hy vọng của chúng ta đó là: được lên Thiên Đàng và hưởng vinh quang với Chúa Giêsu. Trời là đích điểm của đời Kitô hữu. Nhưng trời đã bắt đầu từ khi chúng ta bước vào vũ trụ của Chúa Giêsu Kitô, qua đức tin và các bí tích. Qủa thế, cuộc sống này không có gì là đời đời, không có gì là vĩnh viễn mà chỉ sự sống lại, sự sống hạnh phúc bên Chúa trên trời mới là đời đời, muôn năm hay vĩnh viễn mà thôi.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại. Vì thế, Sứ thần của Chúa hôm nay đã quở trách các môn đệ: “Hỡi người Galilê! Sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời?”. Các môn đệ đã hiểu ý. Các ông đã trở về với nhiệm vụ của mình, hoàn thành công việc dang dở của Chúa ở trần gian, làm chứng về tất cả những gì các ông đã được nghe, thấy được. “Các ông đã ra đi khắp nơi, rao giảng Tin Mừng cho mọi người; có Chúa cùng hoạt động với các ông, củng cố lời rao giảng bằng các phép lạ kèm theo” (Mc 16,20).

Rõ ràng, Chúa lên trời trước mặt các môn đệ và thúc giục các ông lập tức bắt tay vào việc xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian khi các ông còn ở trần gian này và sẽ đồng hành với các ông mọi ngày cho đến tận thế. |Cũng vậy, đối với chúng ta ngày nay, Chúa lên trời nhắc chúng ta nhớ rằng quê hương chúng ta ở trên trời nên chúng ta hãy tìm kiếm những sự trên trời (Pl 3,20; Cl 3,1). Nói thế không có nghĩa là chúng ta phải “xuất thế”, phải xa lánh trần gian. Trái lại, cần phải nổ lực dấn thân “vào đời”, “nhập cuộc”. Có Chúa cùng hoạt động với chúng ta để “mở một tuyến đường lên trời từ mặt đất này” bằng những công việc xây dựng Nước Trời ngày này qua ngày khác; loại trừ những khổ đau, tội lỗi, tạo cho mọi người được sống ấm no, hiệp nhất, yêu thương nhau, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người. Đó là con đường lên trời của chúng ta. Cho nên, trước khi lên trời, Chúa Giêsu sai mọi người vào đời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16,15-18). Vì thế, cho đến ngày nay, Giáo Hội cũng đã và đang “vào đời” như thế: Nói về Chúa, sống chứng nhân, sống gương mẫu, làm việc tốt, tha thứ cho người ghét mình, nghĩ tốt về người khác, rao truyền Tình Yêu Chúa, thực thi Lòng Chúa Thương Xót,…

Chúa lên trời, Ngài không bao giời rời bỏ chúng ta nhưng ở với chúng ta mọi ngày, mọi nơi mọi lúc: trong kinh nguyện và hoạt động, trong bí tích và trong anh chị em. Đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, Chúa đến ở trong chúng ta, ban nguồn sinh lực giúp chúng ta hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nước Trời ở trần gian này là: yêu thương, tha thứ, sống Phúc âm trong đời sống gia đình, giáo xứ hay xã hội và loan báo Tin Vui cứu độ cho mọi người để một khi Nước Trời được hoàn thành Ngài sẽ trở lại trong vinh quang đón tất cả mọi người chúng ta lên trời về với Chúa Cha. Amen.

 

10. Đường vinh quang

Mừng Chúa lên trời có nghĩa là mừng Ngài được tôn vinh sau khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha đã trao phó. Ngài đã hoàn thành trong sự vâng phục và yêu thương, ngay cả trong việc chấp nhận thập giá để cứu chuộc mọi người. Vinh quang được trao ban cho Ngài, vì Ngài đã chấp nhận hy sinh tất cả. Nói cách khác, Ngài đã đi trọn con đường của yêu thương, không nề hà bất cứ một cử chỉ hay một hành động nào, để bày tỏ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối vơi con người.

Sứ mạng ấy Chúa Giêsu cũng đã trao lại cho các môn đệ: Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Các ông đã hoàn tất với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan ghi nhận là chính Chúa Giêsu sống lại đã thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Và theo thánh Luca, thì nếu Chúa Thánh Thần đã gầy dựng Con Thiên Chúa làm người nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, thì nay khi Ngài sắp sửa từ giã các ông, thì Ngài đã hứa ban cho các ông Chúa Thánh Thần như là một sức mạnh để gầy dựng cộng đoàn của Hội Thánh. Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ chờ đón Chúa Thánh Thần tại Giêrusalem. Nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã trở thành những chứng nhân sống động của Đức Kitô cho đến tận cùng bờ cõi trái đất.

Trong bối cảnh ấy Chúa Giêsu đã từ biệt các môn đệ, đây là một cuộc từ biệt không gây nên đau buồn vì Chúa Giêsu có hứa hẹn ngày tái ngộ. Thời gian chờ đợi sẽ là thời gian cần thiết để hoàn thành sứ mạng được trao phó, đồng thời cũng là thời gian chờ đợi vinh quang sẽ đến. Như thế mừng lễ Chúa lên trời cũng chính là lúc chúng ta chờ đợi vinh quang sẽ đến, cũng chính là chờ đợi ngày Ngài trở lại.

Nhưng sự chờ đợi chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó trở thành nỗi bận tâm chu toàn sứ mệnh được trao phó. Người Kitô hữu hôm nay cũng như các môn đệ ngày xưa không phải là những kẻ đứng nhìn lên trời, mà là những người dấn thân rao giảng Tin Mừng cứu độ, đem lại niềm vui của ơn giải thoát cho tất cả mọi người nhất là những kẻ nghèo khổ và bất hạnh. Chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ mạng ấy bằng những hy sinh và quên mình. Lịch sử Giáo Hội xưa cũng như nay cho thấy nơi nào và khi nào toàn thể Giáo Hội cũng như từng người Kitô hữu biết hy sinh những quyền lợi của mình để nghĩ đến những lợi ích chung, nhất là của những tầng lớp bị quên lãng hay bị áp bức trong xã hội, thì ở đó và lúc đó, Giáo Hội cũng như người Kitô hữu làm cho người khác nhận ra được Tin Mừng của Đức Kitô. Và đó cũng chính là vinh quang của Giáo Hội cũng như của người Kitô hữu.

Như thế, con đường dẫn đến vinh quang, là con đường hoàn thành sứ mạng Chúa đã trao phó, trong quên mình và trong hy sinh.

 

11. Lễ Chúa Thăng Thiên

((Suy niệm của Aug. Trần Cao Khải)

“Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19). “Người được cất lên ngay trước mặt các ông và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1,9).

Biến cố thăng thiên đã được các thánh sử nhắc lại như một khẳng định chắc thực về việc Đức Giê-su đã sống lại và đã ngự trị trong Nước vinh quang của Cha. Biến cố này cũng nhắc nhở rằng Ngài đã được phong là Chúa (Kyrios), là Đấng Kitô (Christos), là Vua (Messia) vinh hiển, vì Ngài đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh thiên sai, như Ngài đã nói trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, “Thế là đã hoàn tất” (Gio 19, 20). Chúa đã hoàn tất sứ mệnh cực kỳ gian khổ nhưng đầy vinh quang của Ngài và từ nay sứ mệnh ấy sẽ được trao phó lại cho Cộng đoàn thừa sai mà Ngài đã thiết lập. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần...” (Mt 28,19).

Có thể các môn đồ của Đức Giê-su ngỡ ngàng và hụt hẫng trước việc Chúa “ra đi” trong biến cố “thăng thiên” này, nhưng hơn ai hết các ông sẽ hiểu rằng Chúa “ra đi” thì có lợi cho họ, và rằng Ngài “đi” nhưng không rời xa họ, Ngài luôn hiện diện với họ cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20). Sứ vụ của Chúa chỉ kéo dài hơn 30 năm tại thế, nhưng sứ mệnh của Hội thánh thừa sai thì kế tục mãi đến ngày Quang Lâm của Chúa. Chính vì lí do đó mà Chúa rất quan tâm gầy dựng một Cộng đoàn thừa sai hoạt động thật hữu hiệu, thật chuyên cần và thật khẩn thiết.

Từ biến cố thăng thiên của Đức Giê-su, người Ki-tô hữu chúng ta có thể nhận ra 3 vấn đề liên quan sứ mệnh truyền giáo.

* MỖI NGƯỜI TÍN HỮU LÀ MỘT TÔNG ĐỒ.

Tông đồ là người được sai, nghĩa là nhà truyền giáo. “Nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định của Thiên Chúa ngày càng lan rộng tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại. Vì thế, khắp nơi phải mở đường cho họ tích cực tham gia vào công cuộc cứu độ của Giáo Hội, tùy sức lực của họ và tùy nhu cầu của thời đại ” (Vat. II, LG 33). Vậy đã rõ, người Ki-tô hữu chúng ta không phải chỉ lo “có đạo, giữ đạo” cho riêng mình mà còn có nghĩa vụ và bổn phận “tham gia vào công cuộc cứu độ của Giáo Hội” nữa. Khi tham gia như thế, chúng ta không chỉ “làm tín hữu” mà còn làm người tông đồ, làm sứ giả Tin Mừng Đức Ki-tô...

Tuy nhiên, trước khi bắt tay vào công cuộc truyền giáo cách cụ thể, chúng ta được mời gọi đốt nóng lên nỗi băn khoăn thao thức muốn truyền giáo và sống đời truyền giáo. Quả vậy, chúng ta chưa thực sự truyền giáo nếu chúng ta chưa ước muốn truyền giáo, chưa cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, chưa hi sinh cho sứ mệnh loan báo Tin Mừng...Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giê-su được tôn phong là “Bổn mạng các xứ truyền giáo” không do những công trình truyền giáo vĩ đại mà là do những thao thức “muốn đi truyền giáo” khắp nơi trên thế giới. Ngài truyền giáo bằng đời sống hi sinh âm thầm, bằng kinh nguyện liên lỉ và bằng ước muốn sâu xa từ trong cõi lòng.

Ước nguyện truyền giáo của chúng ta phải xuất phát từ nhận thức rằng truyền giáo là ơn gọi của mỗi người tín hữu, “Tất cả các phần tử trong Hội Thánh mỗi người mỗi cách đều được sai đi. Ơn gọi Ki-tô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ. Mọi hoạt động của Nhiệm Thể nhằm làm cho Nước Đức Ki-tô mở rộng trên khắp hoàn cầu được gọi là việc tông đồ” (x. GLHTCG số 863).

* TẤM GƯƠNG CỦA NHÀ TRUYỀN GIÁO.

Việc truyền giáo khởi sự từ chính bản thân người truyền giáo. “Ngày nay người ta sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy” (ĐGH Phaolô VI), câu nói này thường được nhắc đi nhắc lại nhằm giúp chúng ta khẳng định là “lời nói” không quan trọng bằng “tấm gương sống” của chứng nhân. Chính Chúa Giê-su cũng đã nhắc nhở: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Ki-tô hữu là ánh sáng, là muối, là men cho mọi tầng lớp con người chưa nhận biết Tin Mừng. Thế giới ngày nay khát khao những tấm gương chứng tá Tin Mừng cứu rỗi do Chúa loan truyền. Tấm gương về bác ái công bình, về lòng bao dung tha thứ, về sự hi sinh quên mình phục vụ, về nếp sống nghèo khó, tín thác và vâng phục, về thái độ dám nói “không” với đủ mọi loại tội.

Theo dõi tin tức trên báo chí hằng ngày, chúng ta rất dễ dàng thấy rằng con người ngày nay, kể cả lớp trẻ tuổi niên thiếu, đã thực sự đánh mất cảm thức về tội. Tội giết người, tội dâm ô, tội loạn luân, tội lường gạt, tội vô cảm, tội trộm cắp, tội tham ô, tội bạo hành trong gia đình, tội phá thai, tội tôn thờ bản thân và thần thánh hóa ngẫu tượng vv...Thực tế là chúng ta sẽ mãi mãi phải sống chung với tội, như người ta chấp nhận sống chung với lũ, với bão, với ngập lụt, với nạn kẹt xe, với tình trạng ô nhiễm môi trường... Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, một mặt chúng ta không bao che, không đồng lõa với tội vì chúng ta “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”, một mặt chúng ta phải vươn cao, đứng thẳng hiên ngang làm chứng cho Tin Mừng như ngọn nến sáng trong đêm tối mịt mờ.

Có thể chúng ta sẽ không thể “nói” được nhiều, nhưng nhờ ơn Chúa, bản thân chúng ta sẽ trở thành tấm gương phản chiếu một góc độ nào đó của Tin Mừng Đức Ki-tô. Thực vậy, “Truyền giáo không chủ yếu là chuyển giao một lý thuyết, mà là chia sẻ một sự sống thiêng liêng có sức biến đổi con người nên người hơn và được trở thành con của Thiên Chúa Tình Yêu” (ĐGM GB Bùi Tuần, bài “Ra khơi từ đâu?”, tháng 2-2004). Tất cả chúng ta, một khi đã tin và lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, thì trở thành con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta sống tốt địa vị ấy, chúng ta sẽ là nhà truyền giáo có sức lôi cuốn đặc biệt và gây ngạc nhiên cho nhiều người. Bởi ngày nay, người ta sống thiếu thốn tình thương và hạnh phúc, thiếu vắng bình an và hi vọng. Bản thân và đời sống Ki-tô hữu sẽ trở thành chứng tá sống động của Tin Mừng một khi mỗi người chúng ta tích cực thực thi Lời Chúa: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau ” (Gio 13, 34-35).

Ngược lại, “Trong đời sống thường ngày cũng có câu truyện thương tâm: một cô ngoại giáo lấy ngươì công giáo, láng giềng, bà con thấy cô ta đẹp nết, giục cô ta vào đạo Chúa. Cô ta trả lời: Khi nào cháu thấy đạo Chúa hơn đạo Phật, cháu mới vào. Tìm hiểu, người ta biết được bà mẹ chồng rất siêng năng đọc kinh, dự lễ, đã từng bỏ ra chục triệu cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi Roma xin ơn Đức Giáo hoàng, nhưng bà đã từng sang (nhà) giật nồi, lấy niêu của một bà hàng xóm nghèo chưa có tiền trả nợ cho bà. Cô dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và về đạo”. (Lm. FX. Nguyễn Hùng Oánh, “Bản chất của GH là truyền giáo”, VietCatholic News 18-10-2008).

* CHÚA LÊN TRỜI, MÔN ĐỆ VÀO ĐỜI.

Vào đời để nối tiếp công trình cứu độ của Chúa Giê-su. Vào đời, đó là mệnh lệnh của Chúa. Vì, như Chúa Cha đã sai Đức Giê-su thế nào, thì Chúa Con cũng sai chúng ta như vậy. Với ơn Chúa mà chúng ta cầu xin hằng ngày, với đức tin mà chúng ta nuôi dưỡng từ tấm bé đến giờ, với lòng mến mà chúng ta luyện tập thường xuyên, chúng ta sẽ mạnh mẽ và vững vàng bước vào cánh đồng truyền giáo bao la mà Chúa đang mong đợi chúng ta đến.

Theo ĐGH Gioan Phaolô II, cánh đồng truyền giáo ấy muôn dạng muôn vẻ, nhưng có thể đúc kết thành 3 nhóm: Nhóm những người chưa biết, chưa tin Đức Giê-su Ki-tô; Nhóm những người đã tin Đức Giê-su Ki-tô và đã lãnh nhận bí tích rửa tội, nhưng đã đánh mất niềm tin, rời bỏ Giáo hội, đang sống như người lương dân; Nhóm những người tin Đức Giê-su Ki-tô và đã được rửa tội (Nguyễn Văn Nội, “Loan báo Tin Mừng”- Hưởng ứng thư Mục Vụ 2003 của HĐGMVN, phần VI “Tông đồ giáo dân”).

Vậy tùy theo hoàn cảnh, điều kiện và môi trường cụ thể, chúng ta sẽ vận dụng sáng kiến và khả năng mình có để làm chứng Đức tin Ki-tô giáo và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Dù ở đâu và vào thời điểm nào, chúng ta vẫn cần phải tạo nên bầu khí bác ái cho truyền giáo và chính bản thân chúng ta luôn là dấu chỉ của lòng mến Ki-tô giáo. Sự hiện diện của tông đồ giáo dân ở khắp nơi, trong mọi thời, vừa mang tính chứng tá lại vừa được xem như công cụ giới thiệu Tin Mừng cho nhân loại.

“Trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân phải là chứng nhân của sự Phục sinh và sự sống của Chúa Giê-su Ki-tô, đồng thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi người góp phần nuôi dưỡng thế giới này bằng những hoa trái thiêng liêng (x. Gl 5,22) và truyền bá cho thế gian tinh thần của những người nghèo khó, hiền lành và hiếu hòa, những người mà Phúc Âm Chúa đã tuyên bố là có phúc (x. Mt 5,3-9). Tóm lại, người Ki-tô hữu hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác sống” (Vat II, LG 38).

 

12. "Hãy là chứng nhân của Thầy"

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)

Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Việc Đức Giêsu lên trời đã chấm dứt cuộc đời trần thế và sứ mạng của Ngài trên trần gian theo ý muốn của Chúa Cha.

Tuy nhiên, sứ mạng ấy tiếp tục được chuyển trao cho các Tông đồ là những chứng nhân của tất cả những gì đã thấy và đã cảm nghiệm, để các ông ra đi làm chứng nhân cho Ngài.

Sứ mạng ấy cũng được trao phó cho mỗi người chúng ta trong vai trò là người thuộc về Đức Kitô.

1. Ý nghĩa của việc Đức Giêsu lên trời

Sự kiện Đức Giêsu về trời cho chúng ta thấy: Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha. Đã chu toàn sứ mạng cứu độ con người qua cái chết trên thập giá. Ngài đã sống lại để làm chứng những lời Ngài đã loan báo. Và, hôm nay, Ngài lên trời để đem lại cho chúng ta niềm hy vọng mai ngày cũng được về trời với Ngài như lời Ngài đã nói: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26).

Việc Đức Giêsu lên trời cũng là lúc kết thúc những cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt và mở ra một cuộc gặp gỡ thiêng liêng, vượt lên trên không gian và thời gian. Sự kiện này không chấm dứt mọi hoạt động của Ngài trên trần thế. Nhưng qua đó, Đức Giêsu hiện diện cách phổ quát: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Ngài hiện diện nơi Lời của Ngài và trong Bí tích Thánh Thể, qua Giáo Hội và nơi các chứng nhân. Vì thế, Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, nhưng Ngài lại khai mở ra cho các Tông đồ và Giáo Hội một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của việc cảm nghiệm, loan báo và làm chứng về Đấng Phục Sinh.

2. Sứ mạng của các Tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên trời

Đức Giêsu về trời, Ngài trao ban sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội, khởi đi từ các Tông đồ. Lệnh truyền của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15), để “muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19), phải là lời mời gọi, một lệnh truyền cấp thiết hơn bao giờ hết! Bởi lẽ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (x. Ga 17,18; 20,21).

Vì thế, khi Đức Giêsu đã lên trời, thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi, phải ra đi để đến với muôn dân như lời Ngài đã truyền. Các ông ra đi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Đấng đã chết và đã phục sinh; Đấng là đường, là sự thật và là sự sống; Đấng đã yêu thương con người, đã chết và đã sống lại vì hạnh phúc và phần rỗi của con người. Đấng ấy đã lên trời để đem lại niềm hy vọng cho những ai tin vào Ngài cũng được lên trời như các ông đã thấy Ngài lên trời.

Chính trong giây phút này, các ông nhận lãnh sứ mạng xây dựng Giáo Hội, một Giáo Hội có Thiên Chúa là Chủ và có nhau là anh em; một Giáo Hội yêu thương, hiệp nhất; một Giáo Hội công bằng, nhân ái.

3. Sứ mạng loan báo Tin Mừng của mỗi chúng ta

Lời của Đức Giêsu khi xưa nhắn gửi các Tông đồ: “Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất” (x. Cv 1,8) cũng là lời mời gọi cho mỗi người Kitô hữu hôm nay.

Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về và nhận lãnh sứ mạng ngôn sứ từ nơi Đức Giêsu. Công cuộc ấy chẳng mấy tốt đẹp theo kiểu con người suy nghĩ. Vì thế, Đức Giêsu đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét” (Lc 21,17). Và "hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: “Tôi tớ không hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em" (Ga 15,29). Nhưng hãy học nơi các Tông đồ: càng bị sỉ nhục, bắt bớ và tù đày, các ông lại càng “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41). Bởi xác tín rằng "... trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33; x. Rm 8,35-37).

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm chèo thuyền ra chỗ “nước sâu” để thả lưới...; cũng như tiến ra những vùng “ngoại biên” để đem Ánh Sáng Lời Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa.

“Nước sâu” ở đây chính là những nơi tội lỗi, gian tham, lọc lừa. Nó cũng là thái độ của những con người thù ghét, cấm cách, bắt bớ những người tin vào Đức Giêsu hay là một thái độ thờ ơ, lãnh đạm với niềm tin Kitô Giáo.

Còn “ngoại biên” chính là những người vô gia cư; trẻ em mồ côi, những cụ già không nơi nương tựa... những người đói khát bần cùng, những người không có tiếng nói...

Những nơi ấy, rất cần các Kitô hữu can đảm, trung thành, bất chấp khó khăn, thử thách, để sẵn sàng làm chứng cho sự thật, công bằng. Mặt khác, nơi tâm hồn người tông đồ phải luôn mang trong mình trái tim của chính Thiên Chúa, để lòng thương xót của Ngài được lan tỏa đến những con người kém may mắn đang sống ở bên lề xã hội.

Lạy Chúa Giêsu, hôm nay Chúa về trời, Chúa đã trao phó cho các Tông đồ và Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin Chúa cho mỗi chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi làm chứng cho Tin Mừng của Chúa trong lòng xã hội hôm nay, dầu có phải chịu đau khổ, thử thách. Amen.

 

13. Chúa lên Trời - Ta và đời

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)

Khi sai Con của mình xuống trần gian, Thiên Chúa Cha đã có một kế hoạch đầy yêu thương dành cho nhân loại. Mục đích của kế hoạch ấy chính là quy tụ muôn người về một mối trong Nước Trời. Vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã loan báo về Nước Trời và triều đại của Thiên Chúa; chiêu mộ và huấn luyện các môn đệ; thiết lập Giáo Hội… ; và cuối cùng, Ngài đã chấp nhận cái chết nhục nhã trên thập giá để hoàn tất kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa Cha. Khi đã kết thúc cuộc sống tại thế, Ngài được Thiên Chúa Cha ân thưởng vinh quang trên Nước Trời.

Nhưng, trước khi về trời, Đức Giêsu đã chuyển trao cùng một sứ vụ ấy cho các môn đệ, để các ông tiếp tục loan báo về Nước Thiên Chúa cho mọi người.

1. Chuyển giao sứ vụ cho các môn đệ

Giờ đã điểm, Đức Giêsu đã hẹn: “Mười một môn đệ đi tới Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã hẹn với các ông” (Mt 28,16).

Khi các môn đệ thấy Đức Giêsu, chẳng ai bảo ai: “Các ông phục lạy Ngài” (Mt 28,17).

Khi phục lạy như thế, các môn đệ muốn bày tỏ sự hiểu biết của mình về Đức Giêsu. Vì khi phục lạy ai thì nơi người ấy phải tôn nhận uy quyền với người mình phục lạy.

Hành vi này chúng ta cũng đã thấy nơi ba nhà Đạo Sĩ khi gặp được hài Nhi Giêsu, các ông đã phục lạy và tôn nhận vương quyền của Ngài (x. Mt 2,11). Hay như những người bị bệnh mà được Đức Giêsu chữa lành, trong số đó phải kể đến người phong hủi được lành sạch (x. Mt 8,2). Hôm nay, đứng trước sự huy hoàng của vinh quang phục sinh nơi Đức Giêsu, và hơn thế nữa, các ông nhận thấy mọi quyền năng, vinh quang và danh dự được trao ban cho Đấng Phục Sinh, vì vậy, các ông đã phục lạy Ngài.

Tiếp theo, Đức Giêsu đã tiến lại gần họ và phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân” (Mt 28,18). Qua lệnh truyền này, Đức Giêsu chính thức chuyển trao sứ vụ của Ngài cho các môn đệ là những người sẽ tiếp bước trong tương lai.

Vì thế, sau khi nhận lãnh, các ông có trách nhiệm loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Như một lời trấn an trước nghĩa vụ quan trọng mà các ông vừa nhận được, ĐỨc Giêsu đã nói:”Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20).

Tuy nhiên, dù về trời, nhưng Đức Giêsu vẫn hiện diện cách vô hình, và sứ vụ của các môn đệ luôn luôn có sự đồng hành của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài đã nói: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Điều này đã xác tín mạnh mẽ về sự hiện diện của Đức Giêsu với sứ vụ của các môn đệ. Đây là niềm vui mừng và động lực mạnh mẽ để các ông ra đi thi hành sứ vụ.

Sau những giây phút chứng kiến cảnh huy hoàng cũng như lãnh nhận sứ vụ, các ông hân hoan trở về để cùng nhau xây dựng và phát triển Giáo Hội. Nhất là loan báo triều đại Thiên Chúa đã đến gần, kêu gọi mọi người sám hối và lãnh nhận phép rửa để được cứu độ.

2. Chúa lên trời – ta vào đời

Cùng một sứ vụ mà Đức Giêsu đã trao phó cho các môn đệ, hôm nay, Ngài cũng trao phó cho mỗi người chúng ta.

Lời thiên thần nhắc các môn đệ: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?” (Cv 1,11) cũng là lời nhắc nhở mỗi người chúng ta.

Chúa lên trời là niềm hy vọng cho chúng ta, vì Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta: “Thầy ra đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu, các con sẽ ở đó với Thầy”. Thánh Phaolô cũng đã xác tín khi nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).

Tuy nhiên, chúng ta không chỉ giữ niềm hy vọng ấy cho riêng mình. Chúng ta cũng không chỉ dừng lại ở việc tin vào lời Đức Giêsu đã truyền dạy, nhưng chúng ta cũng phải loan báo cho nhân loại về niềm hy vọng và niềm tin mà chúng ta đã nhận được. Để qua đó: chúng ta hãy đi “và làm cho muôn dân thành môn đệ” (Cv 1,11).

Nhưng, điều quan trọng, đó là chúng ta loan báo Tin Mừng bằng cách nào?

Lời Đức Giêsu hôm nay đã vạch ra cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta kế hoạch truyền giáo để cho có hiệu quả như:

Trước tiên là: “Hãy đi giảng dạy muôn dân”. Lời rao giảng rất cần thiết, vì như thánh Phaolô đã nói: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,14). Tuy nhiên, nếu chỉ rao giảng không thôi thì chưa đủ, mà lời rao giảng quan trọng và hùng hồn nhất là bằng đời sống của người loan báo. Chính lời nói và hành động ăn khớp với nhau làm nên sự thống nhất nơi người môn đệ, và như thế, lời loan báo mới khả tín, đáng tin và đem lại niềm hy vọng cho người nghe.

Thứ đến là: “Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Qua lệnh truyền này, Đức Giêsu cho thấy: Ba Ngôi chính là nội dung và cùng đích của lời rao giảng. Mọi hành vi khi thi hành sứ vụ loan báo Lời Chúa phải quy hướng về Ba Ngôi như là nguồn cội. Tách ra khỏi điểm tựa này, chúng ta sẽ bị rơi vào trạng thái vô định mất phương hướng.

Tiếp theo là: “Giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”. Người môn đệ chỉ là người được sai đi để quy tụ muôn dân về với Đấng đã sai mình. Vì thế, không phải nhân danh cá nhân của mình để phô trương tài cán công lao của bản thân, mà ngược lại, phải trung thành loan báo chính lời của Thầy Giêsu. Chỉ khi nào chúng ta loan báo Lời Chúa cách trung thực, thì bản thân người loan báo mới cảm nhận được hạnh phúc và người nghe mới thấy được niềm hy vọng.

Mặt khác: nội dung của lời rao giảng chính là: “Loan báo về một Vị Thiên Chúa nhân từ, giàu long thương xót với hết mọi người. Ngài đến để yêu họ và yêu đến cùng, nên đã chết thay cho nhân loại để nhân loại được sống và sống dồi dào”. Vì thế, trước, trong và sau khi loan báo, chúng ta hãy: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em chúng ta như chính mình”. Làm được điều đó, lời rao giảng của chúng ta mới thành công, nếu không, mọi lời rao giảng chỉ như chiếc phèng la điếc tai thiên hạ mà không có kết quả.

Cuối cùng, trong mọi biến cố của cuộc đời, nhất là mọi thăng trầm của công cuộc loan báo Tin Mừng, chúng ta an vui và vững bước vì có Đức Giêsu luôn ở cùng để bảo vệ, nâng đỡ như lời Ngài đã phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Hôm nay cũng là ngày Giáo Hội chọn làm ngày quốc tế truyền thông. Khi chọn như vậy, Giáo Hội đề cao vai trò của truyền thông trong việc chuyển tải sứ điệp Tin Mừng. Vì thế, chúng ta hãy biết tận dụng và chắt lọc khi sử dụng những phương tiện truyền thong như: ti vi, báo đài, điện thoại, Internet và các mạng xã hội toàn cầu để loan báo Lời Hằng Sống cho nhân loại.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa về trời là niềm hy vọng cho chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con luôn hướng lòng lên trời, để ái mộ những sự trên trời. Ngõ hầu mai ngày chúng con cũng sẽ được hưởng trọn vẹn niềm vui Nước Trời. Amen.

 

14. Ái mộ trời cao

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

So với trái đất, trời ở xa, xa thẳm, xa như huyền thoại. Trần gian lại quá gần, quá mật thiết với ta. Ta sống với nó, đắm chìm cùng nó, hít thở trong nó tự nhiên như chính sự sống của ta vậy. Vì thế, trần gian đã níu chân ta không ít, khiến ta xa rời trời cao, xa rời biết bao nhiêu chân lý, kể cả những chân lý đó thuộc về cứu cánh muôn đời của ta, hoặc chí ít là tạo nên giá trị tinh thần, giá trị sự sống, giá trị cuộc đời…

Hôm nay mừng lễ Chúa về trời, ý thức đôi chân mình đạp đất, nhưng tâm hồn mình thuộc về trời cao, người Kitô hữu lặp lại lời cầu nguyện như họ đã không ngớt cầu nguyện: “Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời” (là một trong những lời cầu nguyện khi chiêm ngắm mầu nhiệm Mân Côi, mùa Mừng).

Ái mộ những sự trên trời, Người Kitô hữu có được một cuộc sống an bình và quân bình trong nội tâm, dễ đồng cảm với hoàn cảnh của thế giới. Ái mộ trời cao, họ có khả năng dung hòa giữa trời cao và đất thấp; giữa thế giới nhân trần và thế giới tâm linh; giữa những đảo điên của cuộc đời với niềm hy vọng vĩnh cửu; giữa tình yêu bản thân với tình yêu dành cho thế giới xung quanh…

Hội chứng “The Da Vinci Code” đang làm ngả nghiêng kẻ dốt chân lý. Vì thế, trong ngày mừng lễ Chúa về trời, hưởng niềm vinh phúc vì là người thủ đắc chân lý trời cao, ta thử một lần nhận diện kẻ đói chân lý mà hội chứng “The Da Vinci Code” là một trong nhiều bằng chứng, để thêm một lần ta củng cố đức tin của mình bằng lòng “ái mộ những sự trên trời”.

I. HỘI CHỨNG “THE DA VINCI CODE”.

Mấy năm qua, cuốn tiểu thuyết “The Da Vinci Code” (xuất bản tháng 5.2003) đã làm nhiều người chao đảo đức tin, thậm chí đánh mất đức tin. Thời gian gần đây, lại có một bộ phim cùng nội dung, cùng tựa đề ra đời, lại càng làm nỗi lo ngại của mọi lương tâm thêm lớn dần lên.

Nhưng hội chứng này nảy sinh từ sản phẩm của những kẻ bán đứng lương tâm để dàn dựng bởi sự giả trá như thế, có đáng lo ngại? Có là một nguy cơ của đức tin?

Thực ra, nó chỉ là một hiện tượng trong vô số những hiện tượng nổi loạn, tìm khẳng định mình của nhân loại đang khát khao chân lý. Ngay cả hiện tượng đi ngoài chân lý mà “The Da Vinci Code” là một, cuối cùng lại để lộ chân tướng hết sức nhục nhã, cả đến nhơ nhớp: đói chân lý. Đói chân lý, đưa người ta đến chỗ tìm chân lý. Nhưng chân lý thật không phải là một sản phẩm của trí tuệ. Vì thế, kẻ đi tìm chân lý, chỉ tìm kiếm bằng nỗ lực của lý trí loài người, sẽ thất bại. “The Da Vinci Code” cho thấy sự thất bại và dốt nát của một lý trí chỉ biết có lý trí. Nó cũng là sự dốt nát đại diện cho cả một hệ thống lý trí không có chân lý của thế giới, đang xuất hiện đây đó trong nhiều tầng lớp nhân loại, cả những người nhân danh mình trí thức.

Bởi đói chân lý, nó là sản phẩm của sự mất quân bình nội tâm. Nếu con người mà mất quân bình nội tâm, chắc chắn con người sẽ lồng lộn, sẽ vùng vẫy để tìm lối thoát như con thú dữ sa lưới. “The Da Vinci Code” tố cáo chính chủ nhân của nó về phương diện này. Bởi mất quân bình nội tâm, kẻ làm ra “The Da Vinci Code”, cũng như kẻ thưởng thức nó, chẳng bao giờ hưởng bình an, càng không bao giờ gieo bình an. Cuộc đời vốn đã quá nhiều điên đảo, quá nhiều lừa bịp, quá nhiều luồng tư tưởng lẫn lộn khó có thể phân biệt vàng thau, vì thế, thêm một “The da Vinci Code” là thêm một kẻ thù tấn công sự bình an của loài người, càng gây thêm mất mát, gây thêm hoang mang… Bởi vậy, loài người cần sự tỉnh táo để đừng gây thêm nỗi đau cho mình.

Ngoài ra, hội chứng “The Da Vinci Code” cho rằng, nó đang nỗ lực “vạch trần sự thật của Hội Thánh Công giáo”. Nhưng nó lầm. Bởi chính lúc huênh hoan cho rằng, cần phải vạch trần “sự thật lịch sử” ấy, nó đã tự biến mình thành con rối cho chính cái suy nghĩ thiếu chân lý của mình lên ngôi ông chủ, giật giây. Như vậy, “sự thật lịch sử” mà người ta đi tìm ấy, chưa cần biết đã cho câu trả lời ở mức độ nào, thì lại xảy ra một sự thật mỉa mai đau đớn khác: Người ta nô lệ chính cái suy nghĩ thiếu chân lý của mình, nô lệ chính sự giả trá của mình.

Hay “The Da Vinci Code” cũng chỉ là một thứ sản phẩm nằm trong hệ thống chối từ trời cao, một hệ thống không ngừng giải thánh của biết bao nhiêu trào lưu chống đối Thiên Chúa của nhân loại từ xưa đến nay! Điều lạ lùng như một huyền nhiệm lớn, đó là, từ ngàn xưa đến nay, Hội Thánh của Chúa không lúc nào không bị chống đối. Nhưng càng bị chống đối, càng vươn mạnh. Đó là một sự thật không thể chối cãi. Sự thật đó đã chứng mình một thực tế ngược lại với những gì “The Da Vinci Code” và nhiều thế lực chống đối khác đang chủ trương, đó là: Hội Thánh là sự thật! Vận mạng và lý tưởng của Hội Thánh nằm trong bàn tay quyền năng của Thiên Chúa, để những gì là sóng gió người ta nhắm vào Hội Thánh, không thể dìm Hội Thánh, lại quay ngược lại dìm những gì đi ngoài, đi ngược chân lý đức tin. Chẳng hạn, trong hội chứng “The Da Vinci Code” là một bằng chứng lớn vô cùng cho thấy sóng gió không hướng về Hội Thánh. Bởi con người, chính khi chối từ trời cao, lập tức họ tự “bỏ tù” chính mình trong cái thế giới trần ai này. Điều quái gở lớn nằm ở chỗ, người ta tự “bỏ tù” mình mà vẫn ảo tưởng mình tự do. Bởi cứ bị nhận chìm trong ảo tưởng, người ta sẽ càng tự “bỏ tù” chính mình cách sâu hơn, nguy hiểm hơn. Kẻ mất tự do, chỉ biết vùng vẫy trong bóng tối của cái đói chân lý, làm sao có thể trở thành “sự thật” để chứng minh về một sự thật đầy lý tưởng, đầy sức sống, đầy tình yêu, đầy nguồn bình an, đầy phúc thật, đầy sự giải thoát, đầy chân lý… mà Hội Thánh Công giáo cất giữ.

Kẻ đói chân lý như thế, lại chủ trương tìm về cái gọi là “sự thật lịch sử” của một tổ chức đức tin lớn mạnh hàng ngàn năm như tổ chức Hội Thánh Công Giáo. Đúng là ngược ngạo, là mâu thuẫn, là lố bịch.

Nói những điều như trên kể cũng còn tôn trọng những kẻ làm ra “The Da Vinci Code”. Bởi ai biết được, đàng sau những luận điệu giả trá “như thật” ấy, người ta đang tìm cách móc túi cả thế giới này. Như vậy, cả thế giới bị moi tiền để làm giàu cho một trò bịp bợm. Hóa ra, vô tình cả thế giới bị lừa bịp bởi một trò lừa bịp ngoạn mục.

Vì thế, nếu bình tĩnh xét lại, ta thấy “The Da Vinci Code” chẳng đáng lo ngại. Bởi nó chẳng bao giờ có thể có cơ may đáp lại khát vọng sống của lương tri loài người. Đúng hơn, nó chỉ là một thứ giải trí tầm thường, một thứ suy nghĩ xô bồ không chỗ đứng, không tên tuổi, do những kẻ ham tiền, đánh mất lương tri, đói chân lý gây ra. Vì thế, nó càng không bao giờ mang lại bình an cho người làm ra nó, hoặc thưởng thức nó. Nó chỉ là một hội chứng không hơn không kém!

II. ÁI MỘ TRỜI CAO.

Hôm nay, nhân dịp The Da Vinci Code đang thất bại về niềm tin và sự thật, đang trở thành cặn bả của những trái tim không tình yêu, vẫy vùng trong nô lệ của một thứ lý trí thiếu chân lý, đặt trong bối cảnh mừng lễ Chúa về trời, chúng ta cùng nhau lặp lại lời cầu nguyện quen thuộc.: “Đức Chúa Giêsu lên trời, ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”.

Ở trên cao, bao giờ người ta cũng nhìn thấy rõ ràng hơn. Ái mộ những thực tại của huyền nhiệm siêu nhiên vượt lý trí loài người, người ta sẽ nhận ra mình, ra người, nhận ra thế giới quan và vũ trụ quan với một ánh nhìn đầy nhân bản, tình yêu và sự thật. Hướng về trời cao, người Kitô hữu không chấp nhận một lối sống tầm thường, nhưng họ biết thánh hóa mình, để những cái bình thường của đời người mặc lấy sự phi thường của trời cao.

Vì thế, mừng lễ Chúa về trời, ta chỉ xin cho được lòng ái một trời cao, để khám phá chính chân lý đời mình, để đời mình được thăng hoa và nâng cao giá trị.

Lòng ái mộ những sự trên trời là cách tốt nhất để nắm chặt niềm hy vọng vĩnh cửu, là phương thế tối cần để liên tục củng cố đức tin của ta vào Chúa Kitô vinh thắng, là sức mạnh để ta vượt thắng những nghi nan đối nghịch niềm tin, vượt thắng mọi cám dỗ kéo ta xa rời Chúa của mình.

Lòng ái mộ những sự trên trời còn là sự khôn ngoan của loài người nhằm lách mình khỏi mọi thứ nô lệ trần tục, khỏi mọi nguy cơ giết chết giá trị nhân phẩm của bản thân cũng như của đồng loại. Chỉ có lòng ái mộ những sự trên trời dẫn ta đến và bắt gặp đích đến khi đi tìm bến bờ tự do đích thực, tự do vĩnh cửu.

Bởi bất cứ ai biết không ngừng đặt đức tin của mình vào những đam mê trời cao, người đó mới có khả năng sống mọi giá trị nhân bản, mới có khả năng xây dựng và ngày càng củng cố mọi định hướng cho nền tảng nhân văn và sự sống rất mực thanh cao của chính mình, cũng như của nhân loại, của xã hội loài người.

Bởi như một hệ quả tất yếu: Nếu không biết đặt đời mình vào sự sống thiêng thánh, không sống những giá trị trời cao, không giải thoát mình bằng những chân lý tinh thần ngàn đời của nhân loại, trong đó có vô số chân lý thuộc về Tin Mừng Chúa Kitô, thuộc về HộI Thánh của Người, nhân loại chỉ là một thứ sản phẩm của sự chết. Thực tế, cái chết mà nhân loại hứng chịu trong thế giới hôm nay không phải ít: Chẳng hạn, chủ nghĩa tương đối đang xông lên mạnh mẽ. Bởi chỉ là tương đối, không một chút ảnh hưởng tuyệt đối, xa vắng đến vô cùng niềm tin vào tuyệt đối, người ta mất phương hướng cho đời mình. Người ta chao đảo, trở nên cay đắng, thủ đoạn, tù túng, lao đao, độc ác, vô lương tâm, vô nhân đạo, duy hình thức, sống hời hợt, thác loạn, điên cuồng…

Chủ nghĩa tương đối, sinh ra một thứ chủ nghĩa khác còn tệ hơn: chủ nghĩa cá nhân. Mọi tương quan, mọi hiện diện, mọi sự thật bên ngoài mình đều không có giá trị. Chỉ có cá nhân mình là quang trọng. Cái nguy hiểm của cá nhân chủ nghĩa đó là dám triệt hạ tất cả những gì không phải là mình, để chỉ còn lại mình, chỉ có mình.

Như vậy đã rõ: Lòng ái một những sự trên trời sẽ đưa nhân loại tiến về tuyệt đối. Giết chết niềm ái mộ này, nhân loại tự đâm vào tim mình. Họ bị khuất phục bởi nhiều thứ nô lệ tàn nhẫn. Thật trớ trêu đến tận cùng và mỉa mai đau đớn cho nhân loại, đó là khi chối từ tùng phục quyền bính của Thiên Chúa, lập tức, họ phải kề vai gánh lấy không biết bao nhiêu thứ quyền bính thấp hèn, chèn ép, khó khăn, đòi hỏi, tủi nhục… Cũng chỉ Bởi loài người không thể đứng tự lập, trơ trọi, vì thế họ luôn luôn cần có một cái gì để bám. Không bám vào Thiên Chúa, họ lập tức nô lệ cho mọi thứ tầm thường khác. Bởi chỉ có nó là chỗ bám duy nhất, sau khi đã từ chối Thiên Chúa.

“The Da Vinci Code” sai lầm trong chọn lựa của mình khi dám một mình đứng đối nghịch lại cả một khối chân lý ngàn đời. Đó là bài học cho ta, bài học đáng giá ngàn vàng cho mọi Kitô hữu: Đi xa Thiên Chúa, loài người sẽ chới với. Sự chới với ấy dễ làm con người thác loạn, mất bình an, mất mọi trật tự nội tâm.

Như vậy, xét cho cùng “The Da Vinci Code” vẫn có lợi cho đức tin của Kitô hữu. Bởi qua hội chứng của cái đói chân lý này, Người Kitô hữu củng cố chính đức tin của mình bằng cách, từ nay không ngừng hướng về lý tưởng trời cao, để khi ái mộ những sự trên trời, họ sẽ lớn lên trong đức tin của mình, lớn lên đến không ngờ.

Lạy Chúa Giêsu, Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả, những thói đời đen tối không cản bước chúng con tiến về trời cao. Nhưng ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, chúng con biết biểu lộ tình trời dành cho trần thế. Xin cho lòng ái một trời cao của mỗi chúng con, sẽ chứng minh và làm tỏ hiện cho mọi người về một vương quốc vĩnh cửu: Nước Trời.

 

15. Lên trời.

Người ta thường bảo ra đi là chết trong lòng một chút. Sự chia lìa với người thân yêu bao giờ cũng đem lại buồn đau, mặc dù chúng ta biết rằng người ấy sẽ gặp được những may mắn. Vậy phải chăng Giáo hội mặc lấy những tâm tình sầu khổ khi cử hành lễ Chúa về trời. Không, trái lại đây là một ngày lễ ngập tràn niềm vui. Chúng ta vui mừng cho Chúa cũng như cho chúng ta.

Trước hết, ngày lễ Lên Trời chính là ngày chiến thắng ngày khải hoàn của Đức Kitô.

Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại mọi chặng đường Ngài đã đi qua trong suốt cuộc sống nơi trần thế. Ngài đã tự hạ mình xuống mặc thân xác phàm trần trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Sinh ra trong cảnh khó nghèo của hang đá Bêlem. Vất vưởng nơi đdất khách quê người khi chạy trốn sang Ai Cập. Lao động mệt mỏi với cuộc sống tăm tối tại Nadarét. Rồi những năm tháng hăng say rao giảng Tin Mừng, tìm kiếm những con chiên lạc. Và sau cùng là cái chết ê chề nhục nhã trên thập giá. Tại sao Ngài lại chấp nhận? Tại sao Ngài lại ưng thuận? Tôi xin thưa chỉ vì yêu thương chúng ta. Chỉ vì muốn cứu chúng ta khỏi quyền lực ma quỷ, dẫn đưa chúng ta vào quê hương Nước Trời. Giờ đây, công cuộc cứu độ, qua đó Ngài đã hiến dâng tất cả tình yêu và những giọt máu cuối cùng, đã hoàn tất, Ngài vui mừng nhớ lại những gia đoạn đã đi qua.

Phụng vụ hôm nay muốn trình bày Đức Kitô như một vị chiến thắng và khải hoàn đang tiến lên, theo sau Ngài là tất cả chúng ta, những người đã được Ngài cứu chuộc, đã được thông phần vào niềm hạnh phúc Nước Trời. Chúa Giêsu trở về nhà Cha và giới thiệu những người em mới mà Ngài đã chuộc lấy bằng máu châu báu của Ngài. Ngày le lên trời phải chăng là ngày Đức Kitô được Cha tuyên phong làm Vua trời và đất.

Tiếp đến, ngày lễ Lên Trời còn là một ngày vui mừng cho chúng ta, nhờ đó mà bản tính nhân loại được nâng lên cao.

Thực vậy, qua biến cố này, bản tính nhân loại của chúng ta được tham dự vào những vinh quang của Thiên Chúa, vì Đức Kitô đã về trời cả thân xác, với cả bản tính nhân loại. Phải chăng đây là một mầu nhiệm mà chúng ta sẽ không thể nào hiểu thấu. Một người như chúng ta giờ đây đang được ngồi bên hữu Thiên Chúa. Ngài là đầu và chúng ta là chi thể, như trong kinh Tiền Tụng chúng ta sẽ đọc. Ngài về trời để chúng ta được tham dự vào bản tính Thiên Chúa.

Tuy nhiên, cho được như vậy, chúng ta phải nâng tâm hồn lên, như lời kinh Tiền Tụng kêu gọi, bởi vì tội lỗi sẽ ngăn trở không cho chúng ta về trời với Chúa. Tội lỗi như một sợi dây xích cột chặt chúng ta lại với trần gian. Hãy phá tan xiềng xích tội lỗi. Hãy hướng tới quê trời bằng lòng ao ước khát mong từ đó chúng ta sẽ hằng ngày phục vụ Chúa. Hãy khử trừ tội lỗi trung thành bước theo để rồi chúng ta cũng sẽ được về trời với Ngài.

©2020 - GIÁO XỨ HƯNG VĂN. All rights reserved.