Trang Chủ
Tin Tức
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tin Giáo Phận
GIáo Xứ
Thông Báo
Tin Giáo Xứ
Lịch sử Hình thành
Các Hội Đoàn
Hội Lòng Thương Xót
Hội Gia Trưởng
Hội Hiền Mẫu
Hội Đồng Mục Vụ
Huynh Đoàn Đa Minh
Ca đoàn Xứ - Cecillia
Ca đoàn Thiếu Nhi - Têrêsa
Ca đoàn Gia Trưởng
Ca đoàn Hiền Mẫu
Ca đoàn Các Thánh Tử Đạo VN
Ca Đoàn Các Thánh
Lời Chúa
Suy Niệm Hằng Ngày
Suy Niệm Chúa Nhật
Chú Giải Kinh Thánh
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Phút Cầu Nguyện
Phụng Vụ
Các Vấn Đề về Phụng Vụ
Lịch Phụng vụ
Chầu Thánh Thể
Phụng Vụ Chư Thánh
Các Bí Tích
Đức Maria
Mục Vụ
Di Dân
Caritas
Loan Báo Tin Mừng
Giáo Lý Đức Tin
Hôn Nhân- Gia Đình
Tài Liệu
Mẫu Đơn
Thánh Nhạc
Suy Tư
Lẽ Sống
Chia Sẻ
Văn Kiện
Văn Kiện Hội Thánh
Văn Thư HĐGMVN
Văn Thư Giáo Phận
Giáo Luật
Linh Mục - Tu Sĩ
Giới Trẻ - Thiếu Nhi
Vui Học Thánh Kinh
Giới Trẻ
Thiếu Nhi
Ơn Gọi
Thiên Chúa của chúng ta tên là gì?
Gửi Ý Kiến Phản Hồi
Họ và tên của bạn:
*
Email:
*
Nội dung:
*
Mã bảo vệ:
*
Processing...
Gửi Email Cho Bạn Bè
Họ và tên của bạn:
*
Email của bạn:
*
Gửi đến (To):
*
Đồng gửi đến (CC):
Nội dung:
*
Mã bảo vệ:
*
Processing...
Thật không dễ trả lời cho các câu hỏi vừa nêu, bởi vì có ít là hai điều khó khăn: thứ nhất, Thiên Chúa không có tên họ kiểu như loài người; thứ hai, mỗi dân tộc đặt tên cho Thiên Chúa theo ngôn ngữ của mình, cho nên danh xưng của Thiên Chúa không tuỳ thuộc vào tôn giáo cho bằng vào văn hoá. Lý do thứ nhất xem ra đơn giản: trên mặt đất này, có cả tỉ con người, vì thế cần phải đặt tên cho mỗi người để xác định căn cước cá nhân và để phân biệt với những người khác; còn Thiên Chúa thì chỉ có một, cho nên không sợ lẫn lộn. Tuy nhiên, trong cuộc giao tiếp giữa con người với nhau, chúng ta cần phải đặt tên cho mỗi đối thể để khỏi bị hiểu lầm hoặc lạc đề; vì thế chúng ta tìm cách đặt cho Thiên Chúa một tên. Thế nhưng tên này tuỳ thuộc vào ngôn ngữ của mỗi dân tộc, chứ không phải là tên của chính Thiên Chúa. Tôi xin lấy một thí dụ: tên riêng của ông Tổng thống Hoa kỳ là George Bush, và tất cả các nước trên thế giới đều cố gắng đọc cho đúng tên ông ta; tuy nhiên, chúng ta gọi ông là “tổng thống” trong tiếng Việt, chứ đâu phải theo nguyên gốc tiếng Anh là President. Như vừa nói, Thiên Chúa không có tên riêng, nhưng mỗi dân tộc gọi ngài theo ngôn ngữ của mình. Vì thế nhiều danh xưng dành cho Thiên Chúa tuỳ thuộc vào văn hoá chứ không tuỳ thuộc vào tôn giáo. Nói cụ thể,
Allah
không phải là tên riêng của Thiên Chúa dựa theo đạo Islam, nhưng là danh từ thuộc vùng ngôn ngữ ả-rập. Vì thế các tín đồ Kitô giáo nói tiếng Ả-rập cũng kêu cầu Allah trong lời nguyện. Một cách tương tự như vậy, trong tiếng Việt, các kinh nguyện gần đây bắt đầu với lời xưng hô “
Lạy Thiên Chúa
”; nhưng hồi đầu thế kỷ XX thì bắt đầu bằng lời
“
Lạy Đức Chúa Trời
”. “Thiên Chúa” và “Đức Chúa Trời” cũng vậy thôi, và chỉ được sử dụng ở trong tiếng Việt, chứ ra nước ngoài thì hết xài. Hơn thế nữa, cần phải nói rằng ở trên đất Việt Nam có 54 dân tộc, vì thế đến 54 cách xưng hô Thiên Chúa, chứ không hẳn là 54 tôn giáo.
“Thiên Chúa” có nghĩa là Chúa Trời, còn “Allah” có nghĩa là gì?
Lẽ ra trước tiên phải hỏi “Chúa Trời” có nghĩa là gì đã; rồi sau đó, mới bước sang ý nghĩa của từ Allah. Chúng ta sẽ trở lại với danh xưng “Chúa Trời” khi bàn đến các danh xưng được sử dụng trong từ ngữ Hán Việt; bây giờ chúng ta nói đến Allah trước. Đây là một từ ngữ phổ thông trong tiếng Ả-rập để gọi các vị thần linh, chứ không phải là tên riêng của vị thần nào, tương đương với danh từ
El
trong tiếng Do thái được sử dụng trong Kinh thánh Cựu ước. Cũng nên biết rằng tuy danh xưng
Allah
được dùng 2697 lần trong sách Coran (tức là Sách thánh của Islam), nhưng mà theo truyền thống của đạo Islam, thì Thiên Chúa có đến
99 tên
. Các nhà phê bình cho rằng nên hiểu 99 tên như là 99 ưu phẩm của Thiên Chúa, trong đó ưu phẩm được nhắc đến nhiều hơn cả là
Al-Rahman
(Khoan nhân) và
Al-Rahim
(hay thương xót). Dù sao, từ
Allah
ghép bởi hai từ
al-ilah
, một từ ngữ phổ quát trong vùng Trung đông để ám chỉ các thần linh, tương đương với danh từ
El, eloah
trong tiếng Do thái. Nói cách khác, không có gì là riêng tư độc đáo của đạo Islam hay đạo Do thái trong danh xưng dành cho Thiên Chúa. Hơn thế nữa, vào thời xa xưa,
El
là một từ ngữ rất chung chung, ám chỉ bất cứ nhân vật nào (tương tự trong tiếng Việt: “kẻ”, “vị”, “đấng”, “đức”). Có lẽ vì thế mà vào thời các tổ phụ, người ta phải kèm thêm một thuộc từ để xác định bản tính của Thiên Chúa, chẳng hạn như như
El- elyon
: (Đấng Tối cao),
El Shaddai
(Đấng Toàn năng),
El-Hai
(Đấng hằng sống). Mặt khác, các học giả còn lưu ý rằng đôi khi từ
el
hay
elohim
cũng được dùng để ám chỉ các thiên sứ (thí dụ Thánh vịnh 139,1; 29,1; Gióp 1,6). Dù sao, ngoài những danh xưng chung cho vùng văn hóa địa phương, người Do thái xác tín rằng Thiên Chúa đã mặc khải riêng cho họ một tên riêng của ngài là
Giavê
Như vậy, “El” hay “Allah” là tên chung cho các thần linh; còn “Giavê” mới đúng là tên riêng của Thiên Chúa phải không?
Nếu chỉ dựa đoạn văn của sách Xuất hành (6,2-6), thì phải trả lời rằng: “đúng thế”. Đoạn văn viết như thế này:
“Thiên Chúa phán với ông Môsê: Ta là Giavê. Ta từng hiện ra cho Abraham, Isaac, Giacop như
El Shaddai
, nhưng ta không cho họ biết danh hiệu Giavê”. Tuy nhiên, ngày nay, các học giả đã đặt lại vấn đề, bởi vì xem ra người Do thái đã biết đến danh xưng Giavê từ trước ông Môsê rồi, không những dựa theo đoạn văn Sáng thế chương 4 câu 26 (nghĩa là vào thời con cái ông Abel), nhưng theo sách Xuất hành (6,20) ngay cả bà thân mẫu của ông Môsê cũng đã mang tên là Jokebed (vinh quang của Giavê). Mặt khác, Giavê không phải là bí danh hay ám số gì hết: Giavê có nghĩa là “Đấng hằng hữu”. Dù sao, tên gọi Thiên Chúa không quan trọng cho bằng niềm thâm tín về bản tính của Ngài. Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Môsê về mối tương quan mới dành cho dân Do thái: Ngài đã thiết lập một giao ước với họ, họ là một dân được tuyển chọn. Đối lại, người Do thái không được thờ lạy thần linh nào nữa hết, theo như đoạn văn của sách Đệ-nhị-luật (6,4-5) quen gọi là kinh Shema: “Hãy nghe đây, Israel. Giavê Chúa của chúng ta, chỉ có một. Ngươi hãy yêu mến Giavê Chúa của ngươi hết tâm lòng, hết sức lực”.
Như vậy là từ thời ông Môsê trở đi, người Do thái cầu khẩn Thiên Chúa là “lạy đức Giavê” phải không?
Các tác giả không nhất trí trong vấn đề này. Có ý kiến cho rằng tiếp theo việc mặc khải danh thánh Giavê, thì người Do thái đã kêu cầu danh xưng được coi như là tên riêng của Thiên Chúa. Có ý kiến khác cho rằng vì danh Thiên Chúa mang tính cách linh thiêng, cho nên các tín đồ không dám đụng tới nữa. Giới răn thứ hai đã chẳng nghiêm cấm “chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ” đấy ư? Dù sao, thì từ thời đầu Công nguyên, các tín đồ không dám đọc tên Giavê nữa, và thay bằng tiếng
Adonai
. Adonai là một danh từ phổ quát, có nghĩa là “chủ, chúa, lãnh tụ” (đúng ra ở số nhiều, bởi vì số ít là Adoni). Danh từ này được dịch sang tiếng Hy-lạp là
Kyrios
, và tiếng La-tinh là
Dominus
. Mặt khác, như ta thấy trong các thánh vịnh, các người Do thái kêu cầu Thiên Chúa với nhiều danh xưng khác nhau: Lạy Đấng Thánh, Lạy Đấng Toàn năng, Lạy Đấng Tín Trung, Lạy Đấng Đáng Chúc tụng, vv.
Dân Do thái tin rằng Thiên Chúa mặc khải danh của Người là Giavê, nhưng họ kêu cầu ngài là Adonai. Tân ước có thêm điều gì mới về danh xưng của Thiên Chúa không?
Chúng ta nên phân biệt hai khía cạnh: ngôn ngữ và nội dung. Về
ngôn ngữ
, trong Cựu ước, Kinh thánh viết bằng tiếng Do thái, và vấn đề danh xưng có thể khảo sát dựa theo ngôn ngữ của dân tộc Do thái. Bước sang Tân ước, ta thấy rằng tuy Đức Giêsu (đọc theo nguyên gốc Do thái là
Giơ-ho- sua
có nghĩa là: Giavê cứu chữa) dùng tiếng Do thái, nhưng bản văn Phúc âm lại được viết bằng tiếng Hy-lạp. Vì vậy các từ ngữ của Cựu ước được chuyển dịch từ tiếng Do thái sang tiếng Hy-lạp. Đến khi Tin mừng được truyền bá sang dân tộc khác, thì các từ ngữ sử dụng còn phức tạp hơn nữa. Nói cách vắn tắt, hai từ ngữ Do thái vốn được coi như là riêng của đạo Do thái
Elohim
và
Giavê
(hoặc
Adonai
) thì được dịch sang tiếng
Hy-lạp
là
Theos
và
Kyrios
, và tiếng
La-
tinh
là
Deus
và
Dominus:
những danh từ này vốn đã được sử dụng để chỉ các thần linh nói chung, chứ không riêng của một tôn giáo nào. Điều này cũng xảy ra trong các ngôn ngữ châu Âu sau này, thí dụ tiếng
Pháp
là Dieu và Seigneur, tiếng
Anh
là God và Lord. Nên lưu ý là từ
deus
tiếng La- tinh,
dieu
tiếng Pháp và
god
tiếng Anh được dùng để gọi các thần; vì thế mà tuy cùng là một từ ngữ, nhưng khi chuyển sang tiếng Việt thì có lúc phải dịch ra “thần” (hoặc thần linh), có lúc được dịch là “Thiên Chúa”; còn danh từ Dominus, Seigneur, Lord thì được dùng trong ngôn ngữ hằng ngày để gọi các “ông”, hoặc “ông hoàng, ông chủ”.
Đó là nói vấn đề dịch thuật ngôn ngữ, còn vấn đề nội dung thì sao?
Khi nói đến nội dung thì chúng ta gặp thấy nhiều điều mới, mà giới hạn thời giờ không cho phép tôi đi sâu. Tôi chỉ ghi nhận ba điều.
Thứ nhất
, thánh Phaolô dùng danh từ
Theos
(Deus, Dieu, God) cho Chúa Cha, và danh từ Kyrios (Dominus, Seigneur, Lord) cho đức Kitô; thánh Gioan thì gọi đức Kitô bằng cả hai danh xưng đó, cụ thể là trong lời tuyên xưng của tông đồ Tôma sau khi chạm đến Chúa Kitô phục sinh.
Nhận xét thứ hai,
nhiều học giả cho rằng danh xưng mới để ám chỉ Thiên Chúa trong Tân ước là “Cha”, và đức Giêsu đã dạy chúng ta hãy dùng từ này khi cầu nguyện, và Người đã nêu gương trước. Tuy nhiên, trong phụng vụ, các lời nguyện chính thức kêu cầu Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu (và được hiểu về Chúa Cha).
Nhận xét thứ ba
, các nhà thần học thú nhận rằng các ngôn ngữ của con người đều mang tính cách giới hạn, không thể nào diễn tả được bản tính của Thiên Chúa, như sách Đạo đức kinh đã viết: “Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh phi thường danh: đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cữu bất biến; tên mà có thể đặt ra để gọi nó thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến”.
Thế trong tiếng Việt, Thiên Chúa có nghĩa là gì?
Đây là một danh từ Hán Việt,
Thiên Chúa
(hoặc Đức Chúa Trời) không chỉ có nghĩa “Chúa trên trời” mà còn nghĩa là “Chúa cả trời đất” (hay Chủ tể càn khôn) nữa. Trong lịch sử truyền giáo, đã có nhiều cuộc tranh luận xem có nên dùng từ “Thượng đế” hay “Thiên chủ” không. Nhưng mà trong bối cảnh lịch sử văn hoá hồi thế kỷ XVII-XVIII, vì sợ gây hiểu lầm giữa quan niệm Thiên Chúa của Kitô giáo với Thượng đế của các tôn giáo cổ truyền, cho nên người ta tránh dùng từ “Thượng đế”, và thậm chí có lúc để nguyên tiếng La-tinh “Chúa Dêu” (Deus). Dù sao, nên lưu ý là danh xưng Chúa Trời có nghĩa là đấng dựng nên trời đất, trong khi quan niệm cổ điển “Trời” có khi được hiểu là đấng Chủ tể (ông trời), nhưng đôi khi được hiểu về thiên nhiên mà thôi (trời mưa, trời nắng thôi).
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, op.
Bản In
Gửi email
Phản hồi
Tin bài khác
NĂM NAY, VIỆC LÃNH ƠN TOÀN XÁ DÀNH CHO TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI CŨNG ĐƯỢC KÉO DÀI SUỐT THÁNG 11
(Ngày đăng 30/10/2021)
Thứ Sáu, 22.10: NGÀY TOÀN QUỐC GIỮ CHAY
(Ngày đăng 21/10/2021)
Suy niệm Tin mừng: Chúa nhật 29 mùa Thường niên năm B (Mc 10, 35-45)
(Ngày đăng 17/10/2021)
Hãy tin tưởng và cầu xin – Suy niệm Thánh lễ cầu xin ơn chữa lành
(Ngày đăng 17/10/2021)
LỜI CHÚA NGÀY 17 /10 CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN - PM CAO HUY HOÀNG, ĐỨC TRỌNG
(Ngày đăng 17/10/2021)
Thánh lễ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám mục - Lần thứ XVI
(Ngày đăng 11/10/2021)
Thông báo V/v Ngày toàn quốc cầu nguyện xin ơn chữa lành
(Ngày đăng 11/10/2021)
Câu chuyện 1 gia đình 10 người nhiễm Covid
(Ngày đăng 07/10/2021)
Học hỏi Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô cho ngày Thế Giới Truyền Giáo 2021
(Ngày đăng 07/10/2021)
Chúa nhật 27 Thường niên – Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Ngày đăng 02/10/2021)
Xem tất cả »
Cha Chánh Xứ
Kinh Phụng Vụ
Liên kết nhanh
Facebook
Thống kê truy cập
Đang online:
21
Hôm nay:
90
Hôm qua:
209
Tổng truy cập:
91,489,042